Ngày về

14/05/2009 18:09 GMT+7 | Một chuyến đi

(Bài dự thi) - O Lục xa quê để mưu sinh đến chừ đã là năm thứ 12. Mười hai năm đằng đẵng chưa một lần về lại.

Ngày dắt díu nhau đi O đưa các con vào lập nghiệp ở Đắc Lắc. Nhưng  rồi cái tuổi Ngọ xem ra vất vả vậy, chạy  hết đồng đất này phát rẫy trồng vài vạt café. O lại phải “bán non cả đất, cả càm dạt trôi về vùng Bình Phước để lấp khe nuôi cá, trông điều.

Hôm nay về lại mảnh đất mà ngày ra đi, O coi đó là cái làng nghèo khó đầy bất trắc. Nhà O, trước dượng Lạc làm thợ may – Thợ May thời bao cấp kiếm ăn được. Ngày chống mất, mất trụ cột đâm ra mẹ con mất nhờ. Túng khó O bấm bụng xa quê, cứ tưởng sức O dời được núi, lấp được sông. Nhưng … mãy móc rồi cũng phải hỏng. Tuổi  tác, công việc nặng nhọc đã quật ngã O – vốn được coi là “ trâu đất của làng”. O khật khừ đổ bệnh.

Những ngày lang thang chữa chạy o đâm ra nhờ quê gia diết, ngủ cũng mơ thấy bà cô tổ gọi o về hương khói cho gia tiên, choàng tỉnh toát cả mồ hôi hột.

Ngày về thật xốn xang, o chuẩn bị chu tất, dặn con đủ điều rồi mẹ con ra bến xe Miền Đông về lại nơi chon rau cắt rốn. Đang bệnh, xe xóc lắc nhưng o thấy khỏe trong người. ròng rã hai ngày, hai đêm rồi xe cũng về đến thị trận huyện. Lòng  bồng bềnh như người được của, mặt ngó khắp lượt bến xe, Tịnh không có ai người làng. Tạt vào quán, gọi hai bát phở - O ăn thấy ngon miệng:” Miếng thịt quê mình nó ngọt vậy con à” – o nói với con, ăn xong chủ quản bưng ra bát nước chè xanh, sáng vàng như mật, Tu một hơi hết bát nước, o gọi bát nữa – nhấp từng ngụm để cảm nhận cái hương vị của thứ chè trồng trên đồi trọc được nắng và gió lào sang sấy mà chỉ nầu với nước giếng đa mới ngon, ngọt, thơm chát, đậm đà, ngan ngát ngấm vào ruột gan làm o ngây ngất, mắt lờ đờ gợi nhắc nững ngày dượng Lạc còn sống: Chiếc ấm tích đựng trong giỏ tre, bao giờ cũng om đầy chè xanh cắm đũa, nhâm nhi miếng kẹo cu đơ. Chiếc kính cận đeo trễ nãi dượng ngồi cặm cụi đạp bàn máy khâu cả buổi…

Hai mẹ con thuê xe ôm về đến bến đò Sen, bên ni Sông trông xa về phía Tây, nơi mặt trời đang xế bóng dần khuất sau những  lũy tre biếc xanh mùa lập xuân mơn mởn, chạy dọc theo  triền sông, thấp thoáng những cánh đồng ngô mát mắt, Đó là làng o. Đạp đất làng O như khụy xuống gượng đứng nhưng rồi O ngồi xòa trên mặt cát, uồm xuống mép sông, khóa nước máp mặt mình vào mặt sông, uống một thôi, một hồi, dẫu con sông quê dạo này đang mùa nước sóc.

Dọc đương về O ngoảnh trước, ngó sau. Gặp lũ trẻ chăn trâu O vội vàng nhảy xuống xe hét toáng lên:

-Các cháu ơi! Đi trâu hả? bà Lục đây! Bay có nhờ bà không? Lũ trẻ ngơ ngác nhìn bà.

-Lại đây bà cho quà các con ơi! Bà là bà Lục Lạc đây bay ơi – O có biết đâu ngày o đi chúng chưa sinh. O lôi những chùm chôm chôm ra chia cho chúng nó.

- Rứa các cháu con ai? O vui và lũ trẻ cũng rúi rít quanh o, quảng đường từ bến đò về nhà o dừng không biết bao nhiêu tráo, một bao tải hoa quả o chia gần hết.

Người lớn trong làng o gặp đầu tiên là ả chắt Nhự - bạn học với o một trường. Nhận ra nhau o ôm chầm mếu máo: - ả ơi! Tui phải về thôi đi xa nhớ bay, nhớ làng lắm… không quên… không bao giờ quên được mô… o hấp hả, nói như sợ ai tranh mất.

- Tau nhớ từng bờ ruộng, góc trường cũ, nhớ những lối nhỏ đầy gait re, nhớ món canh lá bằng nấu tép đồng chỉ quê mình mới có. Nhớ, nhờ lắm Nhự ơi! O lại nấc lên.

Người đi làm đồng về xúm cả lại tưởng chuyện chi. O ôm chầm tất cả, nắm tay người này bá vai người kia. O đói tình cô gì, chú bác. Rồi ngửa mặt về phía làng:

- Về đến đây, giờ có chết cùng được rồi!!! Nước mắt O lại dàn dụa.

Sống với con, cháu, xóm làng được hơn năm, nhà nào o cũng đến chơi, thăm hỏi. O như biết phận mình. Rồi mùa mưa năm Đinh Hợi, trời xập xùi đãm nước, khóc thương đưa tiễn o cưỡi hạc, quy tiên.

Ngày O đi, cả làng đi đưa đám. HỌ tiễn biệt đứa con của làng – chiếc là vàng héo úa, mỏng manh đã biết rụng về cội

Nguyễn Viết Lợi

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm