Kỉ niệm đầu đời

14/05/2009 17:51 GMT+7 | Một chuyến đi

(Bài dự thi) - Dạo đó khoảng năm 1965, đất nước có chiến tranh, tôi tròn 18 tuổi. Tôi đã TNPT vào loại xuất sắc. Cùng một lúc, tôi nhận hai quyết định-một iấy gọi đi học đại học tại Liên xô (cũ), một giấy gọi lên đường nhập ngũ.

Tôi quyết định nhập ngũ để sống “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”. Thử thách đầu tiên của tôi là cuộc hành quân kéo dài hai đêm lên “Thủ đô kháng chiến”, thành phố Thái Nguyên ngày nay. Kế đó là ba tháng rèn luyện đôi “chân đồng vai sắt”. Vai đeo ba lô gạch nặng 50kg, tập “dã ngoại”, trèo đèo, lội suối, gác đêm…Tôi “đỗ” khoá huấn luyện, chính thức mang anh hiệu “anh bộ đội Cụ Hồ”, trên ve áo mang quân hạm binh nhì mới coong, khoái lắm. Tôi được biên chế về Đồn biên phòng 125 Sơn La “lên miền Tây vời vợi nghìn trùng”. Chúng tôi hành quân theo con đường “Tây tiến” mà cha anh chúng tôi đã đi. Những cái tên Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mai Châu…Chúng tôi chỉ biết qua bài thơ “Tây tiến” của nhà thơ Quang Dũng, bây giờ là điểm đến của chúng tôi.

Đồn biên phòng 125 đóng trên một ngọn núi cao, suốt ngày mây mù bao phủ. Sườn Đông là nước mình, sườn Tây là nước bạn. Đứng canh trên vọng gác tiền tiêu tôi hiểu hết ý nghĩa câu thơ của Quang Dũng “ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Đẹp, lãng mạn, chỉ có cánh lính Hà Nội mới giầu trí tưởng tượng như vậy.

Tôi được Ban chỉ huy Đồn phân công về một bản người Mông, làm công tác vận động quần chúng giải thích để bà con hiểu, tin ở chế độ ưu việt, để ọ tự kêu gọi chồng con còn lầm đường lạc lối theo bọn Thổ phỉ về nhà với vợ con làm người tốt. Tôi lên đường từ lúc trời còn mờ sương. Vượt qua quả núi “ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, lội qua 5 con suối, tôi có mặt tại bản Tà Phình, khi trời đã ngả chiều tối. Con đường dọc Bản vắng lặng. Những căn nhà sàn ẩn hiện sau những bờ rào, cây duối, cửa đóng im ỉm. Đã vậy ngoài cửa còn cắm một cành lá xanh. Họ từ chối đón “khách không mời mà đến”. Đói, mệt, tủi thân. Tôi sẽ ăn đâu, ngủ đâu đêm nay?

Nhưng rồi tôi phải tự lo và quyết định lấy. Tôi chọn một góc vườn trồng toàn mận, mít, dứa…Tôi mắc lên một chiếc “tăng”, phía trên che mảnh ni lông. Mùi trái cây thơm lừng ru tôi vào giấc ngủ từ lúc nào cũng không biết nữa. Tôi tỉnh dậy khi ông mặt trời lên quá cây lộc vừng ở đầu dốc vào Bản. Hình như người lớn lên nương cả. Mấy đứa trẻ vây quanh ngắm tôi và cười. Chúng dẫn tôi ra suối tắm, dạy tôi cách bắt cá nướng ăn. Tôi vui vẻ dạy chúng hát, cùng quét dọn Bản làng, khơi thông cống rãnh. Hôm sau, hôm sau nữa, tôi và bọn trẻ thân nhau hơn, mặc dù bố mẹ chúng vãn quay lưng lại với tôi. Tôi vẫn tiếp tục ngủ vườn. Một đêm dặp trời mưa gió, tôi không ngủ nổi, đành dói ba lô, tăng, võng vào chiếc ni lông, ôm vào long, ngồi trú dưới gốc mít. Bỗng cháu A Minh từ nhà sàn gọi:

-Chú Bộ đội ơi! Mế cháu mời chú vào nhà tránh mưa.
Tôi theo cháu chạy ù đến chân cầu thang. A Minh rối rít: “Lên đây chú!”
Tôi vào nhà, chị chủ đang ngồi bên bếp lửa chuẩn bị bữa cơm tối, Chị bảo:
-Cái bbộ đội thay áo quần khô rồi ăn cơm với gia dình.

Một người đàn ông gầy gò, râu tóc bù xù, quần áo lướt thướt, bước vào nhìn tôi gườm gườm.

Chị vợ nói với chồng bằng tiếng dân tộc. Anh ta lặng lẽ vào buồng trong. A Minh nói nhỏ: “Bố cháu đấy, bố cháu là Phỉ”

Tôi “à” một tiếng. Giờ tôi đã ngồi trên lưng Hổ. Tôi vẫn tỏ thái độ bình tĩnh và nhanh chóng vạch mọi tình huống xấu có thể…Chị chủ nhà vui vẻ nói “ Bộ đội cứ yên tâm, chồng tôi đi ngủ rồi”.

Chiều hôm sau, chị chủ báo cho tôi một tin vui. Trưởng Bản hẹn gặp tôi vào sang chủ nhật, Tôi vui!

Sáng chủ nhật tôi mặc quân phục mới, đeo đủ quân hàm quân hiệu. Tôi hiểu trưởng bản cho gặp, tức là việc làm của tôi trong thời gian qua là một cuộc sát hạch đúng hướng, bà con dân Bản chấp nhận tôi. Công việc của tôi bước đầu có kết quả.

Tôi, chị chủ nhà, cả chồng chị nữa, tóc tai được cắt tỉa gọn gàng, xúng xíng trong bộ quần áo mới, e dè đi cạnh vợ. Tôi ngước nhìn trước các nhà sàn, cành lá xanh kiêng kị đã được bỏ đi.

Bà con đứng rất đông trong sân nhà Trưởng bản. Ông tươi cười tiến đến phía tôi. Tôi đi như chạy, hai tay dơ lên phía trước để được nắm tay Trưởng bản. Ông nói: “Chào cái bộ đội”. Tôi đáp: “ Bộ đội chào Trưởng bản”. Khi hai tay tôi sắp nắm tay Trưởng bản, tôi bỗng dừng lại, phát hiện tay trưởng bản cụt hết các ngón, đầu phần còn lại mưng đỏ, sưng tấy. Ông bị bệnh cùi? Tôi phải “giải mã” nhanh. Nếu chậm một chút thôi mọi nỗ lực của tôi chảy hết theo dòng suối dưới chân núi.

Tôi vượt lên chính mình, nắm chặt tay ông. Ông cười to: “Bộ đội Cụ Hồ tốt lắm!”.

Bà con dân bản vỗ tay. Rượu cần được bê ra. Cuộc lien hoan thắm tình quân dân diễn ra vui, đầm ấm. Tôi hoà vào tiếng đàn môi, đây là một kỉ niệm đầu đời của người lính trẻ mà tôi không bao giờ quên. Tôi coi đó còn là một bài học về công tác dân vận theo tôi hết cả cuộc đời. Người cán bộ hết long “ hiếu với dân” như lời Bác Hồ dạy, được dân tin yêu, ủng hộ thì “ nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua…”

Lê Sĩ Tứ

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm