1 -
Dăm bảy chục năm về trước, khi nghề nhiếp ảnh còn là môn nghệ thuật xa
xỉ, chưa phát triển, kĩ thuật in, tráng còn thô sơ, giá một bức hình
rất đắt, chỉ phục vụ cho tầng lớp nhà giàu. Người dân
nghèo thành thị cũng như nông thôn thường tìm đến các cửa hàng vẽ
truyền thần thuê vẽ một bức chân dung ông, bà, cha mẹ, vợ chồng con
cái… hoặc cả bức tranh phong cảnh cỡ “đại”, viền khung gỗ với nhiều hoa
văn cầu kỳ để treo nơi chính diện trong nhà, vừa đẹp, ưng ý, lại rẻ
tiền. Nghề vẽ truyền thần vì thế rất phát triển. Thời hoàng kim của
tranh truyền thần là những năm 30 thế kỷ trước. Riêng Hà Nội có trên
400 họa sĩ vẽ truyền thần. Các cửa hàng, cửa hiệu được trang hoàng “bắt
mắt”, phố nào cũng có họa sĩ truyền thần miệt mài công việc. Đất nước
trải qua chiến tranh, rồi trải qua thời “tem phiếu” đầy cam go, cùng
với nghề chụp ảnh tiến bộ nhanh chóng, dân chơi cho rằng chụp ảnh
“thật” hơn, nghệ thuật hơn, tiện lợi, ai cũng chụp được. Từ ảnh đen
trắng đến ảnh mầu, từ máy cơ đến máy kỹ thuật số đã trở thành thú chơi
phổ biến. Vì thế, nghề vẽ truyền thần cứ mai một, tưởng rằng chỉ còn
trong ký ức.
Một số nghệ nhân yêu nghế, biết gìn giữ,
nuôi dưỡng nghề truyền thống của cha ông, biết vượt lên mọi khó khăn
của cơ chế thị trường, vẫn trụ vững, vực dậy để khẳng định nét văn hóa
độc đáo của dân tộc vẫn còn vẹn nguyên trong tâm hồn người dân nước
Việt. Và đặc biệt, khi đất nước mở cửa, nhiều vị “khách phương xa đến
lạ lùng tìm xem”. Người có công thổi hồn vào ảnh chân dung, làm sống
lại các di ảnh, mê hoặc khách trong và ngoài nước là nghệ nhân Nguyễn
Bảo Nguyên, người mà bà con khu phố Hàng Ngang tự hào tặng cho ông danh
hiệu “Người nghệ sĩ vẽ truyền thần giữa lòng phố cổ Hà Nội.”
Ông Nguyễn Bảo Nguyên tự họa
2 -
Hàng Ngang là con phố cổ nằm ở trung tâm Hà Nội “36 phố phường” xưa,
bán buôn sầm uất, với những cửa hàng “văn minh thương mại” hoành tráng
chuyên đồ hàng hiệu đắt tiền: quần áo, vải, đồng hồ, giầy dép cao cấp,
mĩ phẩm, đồ cố… Ở giữa phố, tại số nhà 47 vẫn còn đó duy nhất cửa hàng
vẽ tranh “Truyền thần Bảo Nguyên” lặng lẽ, khiêm nhường, chỉ rộng
khoảng 10m2, quanh tường treo đầy tranh khách đã “đặt hàng” hẹn ngày
đến lấy. Tơi đây, khách yêu tranh thỏa sức cảm nhận giá trị nghệ thuật,
nội tâm nhân vật từ nếp nhăn trên gò má, ánh mắt trong trẻo của bé thơ,
gương mặt cương trực của anh bộ đội cụ Hồ, nụ cười sảng khoái trên khóe
miệng người phụ nữ vùng cao địu con lên nương, hoặc chân dung của một
ông Tây đôi mắt xanh nhìn về một nơi xa thẳm.
Góc tường, trên
cao là ảnh Alain, Audrey Mone được phóng tác với nét tài tử, kiều diễm,
sáng giá. Ấn tượng nhất bức chân dung Tề Bạch Thạch, ông vẽ trong mấy
tháng trời mới hoàn thành. Tề lão gia chống chiếc gậy trúc, đôi mắt
sáng, thể hiện cốt cách của một nghệ sĩ tài hoa… Ông chủ Bảo Nguyên mái
đầu hói, chỉ còn lại ít tóc trắng phơ sau gáy, cũng đã thuộc lớp người
“Xưa nay hiếm” đang ngồi trước bức tranh “Thiếu nữ Hà Nội”, ông vẽ dang
dở. Đôi mắt ông nheo nheo sau cặp kính lão, chừng như có nét gì trong
tranh làm ông chưa ưng ý? Ông mời tôi cùng ngồi xem tranh, rồi “à” lên,
“đây rồi, chiếc áo dài, cổ cách tân hơi thấp, tà áo ngắn, các cụ ta
thường bảo quần chùng áo dài kia mà”. Ông tạm gác công việc, ông pha
trà mới tôi. Cách pha trà của ông chậm rãi, tao nhã của người biết
thưởng thức văn hóa uống trà. Tôi và ông vừa nhâm nhi chén trà Thái,
vừa trò chuyện. Qua câu chuyện cuộc đời ông, tôi như vỡ ra, hiểu được
cái tâm của người nghệ sĩ.
Ông tâm sự, con đường vào nghề của ông rất tình cờ, hình như là nghề
chọn ông. Năm 1960, ông đang là sinh viên khoa Lý, trường Đại học Tổng
hợp, không may ông bị một trận ốm thập tử nhất sinh, sự học đành dang
dở. Một lần tình cờ, ông thả bộ dạo chơi phố Hàng Đào, thấy người ta vẽ
truyền thần, ông thích thú đứng xem. Ông đâm mê, ngày nào cũng đến cửa
hiệu quen thuộc, đứng nép mình bên cửa học lỏm. Về nhà ông tập vẽ, đầu
tiên ký họa những người thân quen, cha mẹ, anh em, bạn bè. Được mọi
người khen, động viên “vẽ rất giống”, ông vững tin bước vào nghề.
Ông Bảo Nguyên vẽ chân dung Vũ Tông Phan qua tiểu sử, thơ văn, lời kể
của hậu duệ Vũ Thế Khôi
Ông mở một cửa hàng nho nhỏ cạnh rạp chiếu phim Tháng 8. Sau đó khi cửa
hàng ra nhập vào HTX truyền thần, ông “có đất dụng võ”. Do kiên trì tự
học, vì thực ra làm gì có lớp học chính quy dạy nghề vẽ truyền thần,
nghề không phụ, ông trở thành một thợ cả có uy tín. Mọi người gọi ông là
“họa sĩ”. Ông bảo ông không qua trường lớp nào cả, cũng đừng gọi ông là
“nghệ nhân”, vì ông không phải hội viên một Hội nghề nghiệp. Ông làm
nghề tự do, “xin mọi người cứ gọi tôi là thợ vẽ”. Với nhiều lý do chủ
quan và khách quan, HTX truyền thần của ông “chuyển đổi mục đích” sang
một nghề khác. Ông Bảo Nguyên không buông xuôi, không đánh đắm lòng đam
mê của mình, ông tự xoay vốn, mở cửa hàng tại 47 phố Hàng Ngang, cần
mẫn vẽ.
Tiếng
lành đồn xa, dần dần rồi ông cũng có khách hàng riêng của mình, ngày
càng đông. Có người đến yêu cầu ông vẽ lại bức ảnh cũ của người đã
mất, hoặc ảnh các cụ gần đất xa trời để có ảnh mà thờ. Nhiều người bỏ
quan niệm vẽ truyền thần khi còn trẻ, đem cả ảnh cưới, ảnh con cái đến
thuê ông vẽ về treo tường, coi như một thú chơi. Rất đông khách nước
ngoài yêu mến nét văn hoá được coi như “đặc sản” Việt Nam “đặt hàng”
ông. Có cả các quan khách như Hoàng gia Thái Lan, Phu nhân Đại sứ Mỹ,
Lào… tìm đến ông, đặt vẽ chân dung.
3 -
Công việc vẽ truyền thần, theo ông Bảo Nguyên, không phải chỉ đơn thuần
là “chép ảnh”. “Truyền thần” là một từ gốc Hán- Việt, có nghĩa là
truyền lại cái “Thần” của người được vẽ. Ông Bảo Nguyên đã có kinh
nghiệm 45 năm vẽ tranh truyền thần, trước sau ông chỉ có một quan điểm,
khi vẽ phải nắm được cái “thần” của đối tượng. Theo ông, bức ảnh vẽ
giống thôi chưa đủ, mà phải có thần thái, dù nhân vật trong tranh là
người, phong cảnh hay tĩnh vật. Cái thần đó thể hiện nơi khóe mắt, nếp
nhăn trên trán, hay vài sợi tóc vương trên mặt, chiếc mũi “hếch”, chiếc
răng “duyên”… Người vẽ phải nhận ra, tự tìm thấy, không ai có thể dạy
được. Có những bức tranh ông vẽ đi, vẽ lại tới năm sáu lần mới phát
hiện ra chỗ thiếu, bởi “nhìn mãi vẫn không thấy người trong tranh nói
chuyện được với mình”.
Ông
có một “kỷ niệm không bao giờ quên”, khi Giám đốc TT văn hóa Đông Tây,
cháu đích tôn 9 đời của dòng họ Vũ Tông Phan (1800- 1851)- danh nhân
văn hóa của dân tộc đặt ông vẽ chân dung cụ Vũ, kịp phục vụ kỷ niệm
200 năm ngày sinh ông Tổ của mình. Nhưng không có ảnh mẫu! Người nhà
chỉ đưa cho ông mấy dòng tiểu sử, mầy bài thơ của cụ Phan để ông tưởng
tượng mà vẽ ra. Quả là không đơn giản. Nghiền ngẫm tư liệu suốt hơn một
tuần lễ, ông vẫn chưa tìm thấy “đáp số”. Ông đề nghị người nhà kể về cụ
Tổ của mình. “Cuộc nói chuyện không gò bó, tôi lắng nghe, và hình hài
cụ Phan cứ hiện dần ra. Sau cuộc nói chuyện lần thứ hai, khi người
khách vừa đi khỏi thì “thần” của Vũ Tông Phan hiện về, cứ như có một
con người thật ngồi bên giá vẽ làm mẫu. Tôi cầm bút phác thảo những nét
chính, rồi treo vào một chỗ kín đáo. Con cháu cụ Vũ Tông Phan đến xem,
thốt lên “Tôi chưa từng thấy mặt cụ Tổ, nhưng thần thái người trong ảnh
giống thần thái dòng họ Vũ Tông nhà tôi”. Lúc đó tôi như muống khóc òa
lên vì biết mình đã thành công” – ông Bảo Nguyên kể.
Có lần ông
nhận vẽ lại bức tranh của nhà văn Lan Khai, theo yêu cầu của con trai
nhà văn, ông Nguyễn Lan Phương, lặn lội từ Hà Giang xuống nhờ ông vẽ .
Bức ảnh từ đấu thế kỷ XX đã ố vàng, đường nét lu mờ. Ông yêu văn của
nhà văn tiền chiến, ông nhận lời. Hẹn… 2 năm mới hoàn thành. Trong 2
năm đó, ông đọc, nhớ lại giọng văn của Lan Khai. Mỗi ngày ông vẽ một
ít, cứ thế cho tới lúc hoàn thành bức tranh. Khi nhận ảnh, ông Lan
Phương sững sờ, không tin nổi vào măt mình, bởi người trong tranh chính
là cha ông, nhà văn Lan Khai- Nguyễn Đình Khải.
Ngày nay, trên
thị trường bán sẵn những hộp mực ngoại tiện dùng cho người vẽ tranh.
Theo ông Bảo Nguyên, chất lượng không bằng cách pha thủ công, thuộc bí
quyết nhà nghề, ông mầy mò tạo riêng cho mình. Ông kể: “Truyền thần
chỉ có 2 mầu đen, trắng. Mầu trắng sử dụng ngay mầu của giấy, màu đen
thì đốt cao su, lốp xe, ngọn đèn dầu hỏa khều cao bấc, khói càng nhiều
càng tốt. Dùng chiếc phễu hứng lên ngọn lửa lấy muội than. Thứ muội đó
dùng làm mực vừa mịn lại bền mầu, phơn phớt vàng nâu vẽ trên nền giấy
trắng rất “ăn”, không đen nhánh như mực công nghiệp. Bút vẽ của thì
khác người ở chỗ dùng những chiếc đũa tre dài ngắn khác nhau. Một đầu
chẻ làm tư, gim những cái tăm hoăc chân hương được thít chặt bằng sợi
dây đồng nhỏ, làm đầu bút. Đầu kia chẻ làm đôi, buộc một chiếc tẩy nhỏ
hình tam giác, hoăc miềng bông rất êm để vẽ tranh có diện rộng”. Đơn
sơ, mộc mạc, cây bút trong tay ông cứ như “cây bút thần”, khi đậm, khi
nhạt, có nét như gió thoảng, mềm mại, bay bổng “thổi hồn” vào những bức
tranh.
Cả đời người chuyên tâm theo nghề, gian khổ, nhưng cũng
đáng tự hào. Tranh của ông được mời tham gia triển lãm ở Nhật, Mỹ, Anh…
Năm 2000, ông có tới 14 bức tranh tuyền thần được trưng bầy tại một
cuộc triển lãm lớn ở Nhật Bản. Thế giới biết đến tranh của ông. Ở tuổi
75, ông còn một ước mơ: kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long- Hà Nội, nếu
còn đủ sức cầm cây bút vẽ, ông sẽ đội khăn xếp đỏ, mặc áo đỏ, ngồi tại
ngôi hàng 47, phố Hàng Ngang vẽ truyền thần phục vụ quý khách trong và
ngoài nước.
Lê Sĩ Tuấn Phúc