13/12/2013 10:00 GMT+7 | Văn hoá
(Thethaovanhoa.vn) - Nhờ thơ Mỹ Kevin Bowen, từng là người lội ngược dòng, bắc cầu văn hóa Việt Nam - Mỹ những năm tháng sau chiến tranh, ông vừa trải qua một tai nạn nghiêm trọng, trí nhớ của ông bị ảnh hưởng. Điều đặc biệt, trong quá trình phục hồi trí nhớ, ông vẽ chân dung các văn sĩ Việt Nam, những người đã cùng ông làm "sứ giả đầu tiên của hòa bình".
Thethaovanhoa.vn xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều:
Những năm tháng giá lạnh và đầy thù địch trong quan hệ hai nước Mỹ và Việt Nam đã tan đi một cách cơ bản. Ký ức về những ngày đó có những lựa chọn tốt hơn và công bằng hơn. Nhân chứng của những năm tháng ấy thi thoảng vẫn gặp nhau và câu chuyện của họ mở ra một lối khác. Kevin Bowen và những nhà văn, nhà thơ cựu binh Mỹ vẫn trở lại Việt Nam.
Cuộc chiến tranh ở Việt Nam kết thúc, nhưng hòa bình thực sự không đến cùng ngày với sự im lặng của tiếng súng. Nó vẫn phải đi một chặng đường dài sau đó. Có thể nói, những nhà văn, nhà thơ, nghệ sỹ của cả hai nước chính là những sứ giả đầu tiên của hòa bình bởi người ta tin họ là những người công bằng với sự thật và luôn vươn về phía tốt đẹp. Họ đã đến và mang theo hòa bình trong đôi mắt và giọng nói của họ. Ở Việt Nam, ngôi nhà mà tinh thần của hòa bình giữa hai dân tộc đã đặt chân chính là trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam và ở Mỹ, tôi nghĩ, đó là ngôi nhà của Kevin Bowen ở Dorchester, Boston, bang Massachusetts.
Bây giờ Kevin không còn làm Giám đốc Trung tâm William Joiner (nay đã đổi thành Viện William Joiner). Ông đã chuyển nhà đến Dedham, Boston. Các nhà văn Việt Nam đến Mỹ bây giờ không thường xuyên như trước và cũng ít đến ngôi nhà mới ấy hơn vì nó ở rất xa trung tâm Boston.
Mấy năm trước, Kevin bị tai nạn vì ngã và cú ngã đó làm một phần não ông bị chấn thương. Ông bị mất một phần trí nhớ. Nỗi sợ hãi mất trí nhớ có lẽ là một trong những nỗi sợ hãi lớn nhất của con người. Kevin rơi vào nỗi sợ hãi đó. Nhiều năm trước, Kevin đã trở về Ai-len, cố hương của ông, mua một mảnh đất và dựng lên một ngôi nhà bên những quả đồi gần bờ biển. Ông nói ông dựng lên ngôi nhà ấy để chống lại nỗi sợ hãi đánh mất ký ức về cố hương mình. Hàng năm, ông đưa gia đình trở về ngôi nhà đó. Tôi đã đến và ở trong ngôi nhà ấy năm 2003. Tôi đã chứng kiến có những buổi chiều Kevin ngồi bất động nhìn ra cánh đồng cỏ chạy ven chân đồi không bao giờ hết gió. Ông đang nhớ về những người trong gia đình ông ở Ai-len đã khuất. Còn trong ngôi nhà ở Dedham, ông đã tìm ra một phương pháp kỳ diệu để chống lại bệnh mất trí nhớ. Đó là hội họa. Nhưng không. Hội họa chỉ là phương tiện.
Thực sự là như thế. Để chống lại bệnh mất trí nhớ có thể thống trị toàn bộ ông và dìm ông vào bóng tối của sự quên lãng, ông đã dùng một liều thuốc đặc hiệu : Hồi phục ký ức về “kẻ thù cũ” của mình. Đó là những Hoàng Ngọc Hiến, Vũ Tú Nam, Nguyễn Quang Sáng, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Thu Bồn, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Ý Nhi, Nguyễn Duy, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Như Trang, Nguyễn Quyến, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Đức Mậu, Chu Lượng, Lương Tử Đức….và biết bao nhà văn, nhà thơ, nghệ sỹ khác. Hầu hết những người tôi vừa kể tên đã đến nước Mỹ, trú ngụ trong ngôi nhà của ông trong hơn 20 năm qua và nói về hòa bình và văn hóa. Và theo tôi, hòa bình trong họ là nền hòa bình đáng tin cậy nhất. Bởi họ hiểu cái giá của hòa bình khi dân tộc họ phải đi qua triền miên những năm chiến tranh. Sự tin cậy từ họ đã mang đến cho Kevin một cái nhìn thống nhất tuyệt đối. Cái nhìn ấy được minh chứng trong tất cả các chân dung mà Kevin vẽ. Đó là ánh sáng của sự chân thành và thiện chí tỏa ra từ những bức tranh.
Mỗi một nhà văn, nhà thơ, nghệ sỹ mà Kevin vẽ có những cá tính rất khác nhau và họ có những khoảnh khắc hiển lộ những hành động sống khác nhau trong gia đình, trong công sở, với bạn bè và đồng nghiệp và trong cả sự sáng tạo. Nhưng khi họ đặt chân lên nước Mỹ, đặt chân vào ngôi nhà của một người Mỹ, một cựu binh Mỹ, một nhà thơ Mỹ có tên là Kevin Bowen, họ hình như chỉ mang theo đức tính đẹp nhất của người Việt là sự chân thành, thiện chí và mang theo khát vọng lớn nhất của dân tộc Việt là hòa bình. Ngoài những tấm hộ chiếu họ cầm trên tay nhằm xác nhận danh tính cá nhân họ thì tất cả những con người này đều mang theo một tấm hộ chiếu chung để xác nhận danh tính dân tộc họ. Tấm hộ chiếu này có lúc bị bỏ quên đâu đó hay bị thất lạc nhưng không bao giờ bị đốt cháy. Tấm hộ chiếu đó, tôi đã nhìn thấy dòng chữ : Vương quốc Hòa bình và Văn hóa Việt Nam. Tôi tin rằng: khát vọng tận cùng của mỗi dân tộc là xây dựng đất nước họ thành một Vương quốc hòa bình và văn hóa. Những nhà văn, nhà thơ và nghệ sỹ chân chính Việt Nam đã mơ về một Vương quốc như vậy và nỗ lực hành động cho giấc mơ ấy.Suốt hơn hai mươi năm, hầu như mọi mùa hè đều có những nhà văn, nhà thơ và nghệ sỹ Việt Nam đến và ở lại trong ngôi nhà của Kevin ở Dorchester, rồi ở Dedham. Họ đến đó sau một chặng đường dài nửa vòng trái đất và sau những khó khăn, phức tạp của việc xin visa vào Mỹ trước khi quan hệ hai nước được bình thường hóa. Họ đến đó như chẳng để làm chuyện gì to tát ngoài việc nấu ăn, chơi với trẻ con, chơi bóng rổ, vẽ, đọc thơ, hát và trò chuyện. Họ ngồi với nhau trên hiên nhà phía sau thì thầm đến khuya. Những lúc như thế, tôi có cảm giác họ đã giải quyết xong tất cả những gì còn tồn đọng sau cuộc chiến giữa những người lính của hai phía. Họ là những nhà ngoại giao siêu đẳng. Và những truyện ngắn, những trang tiểu thuyết, những bài thơ, những bức tranh…là những văn bản tối thượng của các nhà ngoại giao này.
Từ ngôi nhà của Kevin sực nức mùi ẩm thực Việt Nam trong những ngày hè, những văn bản siêu ngoại giao này được gửi đi cho rất nhiều người Mỹ ở các tầng lớp xã hội khác nhau. Có một thứ lợi ích mà cả hai bên đều được hưởng nhưng không bên nào thấy mình bị thiệt thòi và gây ra những tranh chấp. Đó chính là lợi ích của hòa bình và văn hóa. Còn những lợi ích khác lại luôn luôn có nguy cơ trở thành ngòi nổ của thù hận và đôi khi của những cuộc chiến đẫm máu.
Khi vẽ là lúc Kevin đang phục hồi ký ức của ông. Các nhà văn, nhà thơ, nghệ sỹ mà Kevin vẽ cũng đang phục hồi ký ức mình khi đứng trước chân dung mình. Thời gian cứ thế trôi và họ đã già đi. Nhưng với Kevin thì họ chỉ “ trưởng thành mà không già đi” như ông nói. Tôi thấy trong ký ức của Kevin, vẻ đẹp và khát vọng của những nhà văn, nhà thơ, nghệ sỹ Việt Nam mà ông đã tiếp xúc vẫn tiếp tục lớn lên cho dù phần sống của họ ở ngoài ký ức của Kevin có những lúc đổi thay. Và tôi thấy, tôi là một ví dụ cho điều này. Càng sống thì tôi càng cộng thêm vào mình những thói hư tật xấu trong khi đó có một tôi ở trong ký ức của Kevin lại vẫn đang trưởng thành với những gì đẹp đẽ và trong sáng. Điều này vừa làm cho tôi hạnh phúc vừa làm tôi xấu hổ.Kevin không định trở thành một họa sỹ, ông càng không có ý định làm một triển lãm, ông chỉ là người mang chúng ta về lại cho chúng ta mà thôi.
Thethaovanhoa.vn xin giới thiệu một số bức chân dung và "lời tựa" của tác giả Kevin Bowen về các văn sĩ Việt Nam:
Tôi vẽ bức chân dung này từ một bức ảnh năm 1990 khi ông chụp với một nhóm nhỏ cùng Hữu Thỉnh, Trần Minh Hồ và một vài người khác. Khi đó chúng tôi thường ở Hồ Tây, chỉ tới sau này khi ở trung tâm Hà Nội tôi mới biết tới sự nổi tiếng của ông. Chúng tôi đang ngồi tại bàn ăn khi một bài hát được phát trên radio, dần dần mọi người đều hướng về phía bàn chúng tôi nơi tác giả nhà thơ đang ngồi. Ông đã hát bài hát đó, Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây cho một nhóm khán giả tại Boston, khiến cho nhiều người xúc động. Ông đã dành thời gian với chúng tôi đọc những tấm microfilm bao gồm sổ tay của những người lính bị bắt giữ để tìm những lá thư và những bài thơ mà sau này đuợc in tại Việt Nam.
Tôi nghĩ bài thơ của ông mà tôi yêu thich nhất vẫn là bài Cây cầu được viết vào tháng 8 năm 1964 khi ông mới 19 tuổi vào thời điểm “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” dẫn tới việc ném bom miền Bắc. Duật luôn đợi chúng tôi tại Hà Nội, dẫn chúng tôi tới những cuộc phiêu lưu nhỏ, lần đáng nhớ nhất là chyến đi qua Hồ Tây trên một con thuyền nhỏ tới một ngôi chùa nơi chúng tôi đốt vàng mã và cầu khấn cho những người đã khuất. Tôi vẫn nghĩ tôi nghe được giọng ông, cảm nhận được tâm hồn ông mỗi lần tôi tới thăm Việt Nam.
Nhà thơ Thu BồnTôi không nghĩ bất kỳ ai từng gặp Thu Bồn có thể quên được ông. Sự chói lọi của ông được tôn lên bởi sự hiền lành và nhã nhặn khiến mọi người yêu quý ông. Vào mùa hè ông ở Dorchester, ông trở thành huyền thoại với những người hàng xóm với bộ comlê trắng and mái tóc bạc dài bay trên phố. Ông đã làm bạn với những người hàng xóm và lũ trẻ nhà họ, làm họ thức khuya lắng nghe những câu chuyện của ông.
Kỷ niệm rõ ràng nhất là một đêm trên sông Bé, trong vườn thơ của ông, ngồi bên đống lửa với những cựu binh và gia đình họ từ nhiều lĩnh vực trong chiến tranh, nhà thơ, nghệ sĩ, những góa phụ, nhiều người đã mất chân tay, tôi quan sát những những thân hình khác nhau hiện lên, tỏa bóng bên đống lửa, ca hát, quan sát những người khác, tham gia cùng họ , cầm tay họ, có ai đó cầm một cây nến khi tôi đọc thơ. Bằng cách nào đó tôi cảm thấy tôi mới chỉ bắt đầu vẽ người đàn ông này, mái tóc có phần hoang dã của ông, với nụ cười ôm lấy tất cả mọi người.
Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến
Tôi từng đọc các bài viết của giáo sư Hiến trước khi ông đến Boston. Từ những bài viết đó tôi biết rằng ông là một người chân thành, một nhà học giả thực sự độc lập và luôn đổi mới. Đối mặt với những đe dọa từ những người cuồng tín chống cộng trong cộng đồng ông không nhất thiết phải đến Boston, nhưng ông đã đến. Cùng với giáo sư Nguyễn Huệ Chi, ông đã làm việc trong văn phòng phía sau trung tâm với Nguyễn Bá Chung. Cả hai người đều không hề nao núng khi cảnh sát bước vào và báo cho họ biết rằng đã có một cuộc gọi dọa đánh bom vào cuộc thuyết trình của ông. Nhưng cả hai đều muốn tiếp tục.
Giống như một người ông hiền từ, GS Hiến là một giáo sư mà tất cả chúng ta đều muốn có. Tất cả mọi người đều yêu quý ông. Tôi nhớ ngày ông tới trường khi mà những cảnh sát có trách nhiệm giữ an toàn cho ông và họ gặp ông lần đầu, viên chỉ huy của đơn vị thở dài, lắc đầu và nói “vậy đây là người đàn ông nguy hiểm nhất đó sao.” Tôi đã có vinh dự được đến thăm ông tại nhà và văn phòng tại Hà Nội. Gặp ông tại Hà Nội, tôi thấy bao quanh ông là những cuốn sách ông yêu thích, một bức chân dung sơn dầu vẽ Mayakovsky trên tường. Một người đàn ông viết về lịch sử và cuối cùng ông đã làm nên lịch sử.
Nhà văn Vũ Tú NamVì một vài lý do, khi tôi vẽ Sáng, tôi cảm thấy như mình đang cố nắm bắt một sức mạnh có thể có của một con người. Mỗi lần gặp Sáng, ông luôn tỏ ra là trung tâm của một vòng tròn năng lượng lớn. Mọi người gặp ông đều biết đến tiếng cười của ông.
Tôi luôn liên hệ nhà văn Sáng với âm nhạc. Tại Boston, tôi vẫn nhớ lúc ngồi ngoài vườn khi ông hát những bài hát cũ của Trịnh Công Sơn cùng những người bạn. Tại Sài Gòn, tôi vẫn nhớ lúc lắng nghe piano của con gái một người bạn từ cửa sổ vào một con ngõ nhỏ khi chúng tôi ngồi ngoài đó quay thịt lợn. Chúng tôi đã có rất nhiều buổi tối muộn với nhau, bao gồm cả những hôm tôi quan sát ông chơi bóng rổ ở sân sau nhà tôi. Tôi cố gắng nắm bắt những điều đó trong bức chân dung đầu tiên. Rồi sau khi tới thăm ông tại nhà mới, nhìn thấy chiếc võng rừng cũ của ông trong phòng làm việc của ông, bàn làm việc với những bức ảnh ông hồi trẻ trong rừng, tôi quan sát ông ôm đứa cháu mình. Lúc đó tôi biết là mình cần phải vẽ một bức chân dung thứ hai của ông khi còn trẻ.
Nhà văn Nguyên NgọcDù nay đã là một nhà văn lớn tuổi, Nguyên Ngọc dường như không bao giờ già đi. Tôi vẫn còn nhớ lần quan sát gương mặt ông trở nên đầy sức sống lần đầu tôi phỏng vấn ông năm 1992, đôi mắt ông sáng lên khi ông kể về cuộc đời mình trong chiến tranh và cái ngày ông thấy gương mặt vợ mình giữa những tù nhân được thả nhiều năm sau khi ông tưởng bà đã chết.
Tôi còn nhớ mười năm sau đó vợ tôi, các con tôi và tôi ngạc nhiên quan sát ông và Trần Văn Thủy sắp xếp một bàn ăn ở sân sau nhà khi chúng tôi đang lóng ngóng chuẩn bị nấu ăn ngoài trời. Ngọc bất ngờ xuất hiện, còn tôi đang băn khoăn không hiểu sao tôi có thể vừa tiếp khách vừa chuẩn bị đồ ăn cùng một lúc. Không có vấn đề gì, Nguyên Ngọc tham gia vào ngay, vui vẻ giúp đỡ và trò chuyện. Đó là phẩm chất của người đàn ông tôi tìm kiếm trong bức chân dung.
Nhà thơ Hữu ThỉnhMột trong những kỷ niệm sống động nhất của tôi là về Hữu Thỉnh, Lê Minh Khuê, và Nguyễn Quang Thiều bước xuống máy bay, bước đi trên con đường vào ngày họ tới Boston. Họ tới thăm và tạo ra một mối liên kết vẫn tồn tại ba mươi năm sau. Ban đầu chúng tôi cũng hơi hồi hộp vì chức vụ cao và quá khứ hoành tráng của ông nhưng vào một ngày ông vào bếp nhà tôi với chiếc mũ dạ và bộ đồ ngủ thì tôi biết rằng chúng tôi sẽ trở thành bạn lâu dài. Thường vào buổi sáng, ông đưa tôi ra vườn và dạy tôi những bài tập để bảo đảm sức khỏe, vào buổi trưa ông thường kể chuyện và nấu ăn. Ông còn giúp chúng tôi đóng một chiếc gương trước cửa chính để phản lại khí xấu vì ông lo lắng vấn đề phong thủy của nhà tôi. Ông cũng thường trông chừng mỗi khi con trai tôi chơi ở sân sau.
Một trong những kỷ niệm đẹp nhất của tôi mới chỉ hơn một năm trước đây khi chúng tôi cùng đi ăn tối ở Hà Nội, Thỉnh và vợ ông, tôi cùng vợ tôi Leslie, con gái tôi Lily và hai cô con gái ông. Tôi vẽ bức chân dung này cũng với bức ảnh chụp năm 1990 tôi dùng để vẽ chân dung Phạm Tiến Duật. Những nhà thơ của chiến tranh, những đôi mắt đầy niềm vui và nỗi buồn, tình bằng hữu, những điều kỳ diệu, và sự mất ngủ triền miên.
Nhà văn Lê LựuLê Lựu là nhà văn đầu tiên chúng tôi gặp tại Việt Nam. Ông là người dẫn đường và là đại sứ của chúng tôi. Vào cuối những năm 80, ông dẫn chúng tôi tới thăm những ngôi nhà mù tối vào ban đêm, những ngôi làng của những cựu binh tật nguyền, tới gặp những cựu binh khác nơi mà chúng tôi xếp những núi bia và thuốc lá, những thứ hàng hiếm trên bàn. Ông là người đầu tiên tới và thăm chúng tôi tại Hoa Kỳ, du lịch quanh đất nước, gặp những cựu binh và nhà văn tại những vùng chưa được thám hiểm.
Cũng giống như những gì ông đã làm trước chiến tranh, khi ông được gửi lên biên giới để trao đổi thực phẩm với những người lính khác. Tôi đã tìm những hình ảnh của Lê Lựu thời trẻ cho bức chân dung, cố gắng lột tả người đàn ông có thể là Sài hoặc anh trai ông trong “Thời xa vắng,” có thể là một anh hùng, một cậu bé quê, ngây thơ nhưng cũng thông thái dần qua thời gian, không thoải mái lắm trong bộ com lê, nhưng luôn biết rằng ông có nhiệm phụ phải trình diễn.
Nhà văn Đỗ ChuTôi nhớ rất rõ đêm đầu tiên Đỗ Chu tới thăm Boston. Ông đến với đầy những tấm toan căng sẵn và màu dầu sẵn sàng để vẽ. Chúng tôi thức khuya mỗi đêm sau khi hoàn thành công việc ban ngày, nói chuyện, trao đổi những câu chuyện, khi ông vẽ chân dung Leslie và cả tôi mà đến giờ vẫn treo trong nhà tôi. Ông không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, và cứ lần nữa, cho dù chúng tôi có ngăn cản rằng “bức chân dung đã xong rồi,” chúng tôi vẫn quan sát ông đi ra vườn sau và cạo đi tất cả những gì ông vẽ cả ngày.
Ông là một trong những người rất thích bạn bè khách khứa với lòng trắc ẩn sâu sắc. Tôi được biết tới câu chuyện về việc ông từ bỏ viết lách trong hơn 5 năm để về quê chăm sóc vợ. Vài năm trước ông dẫn chúng tôi tới thăm quê nhà Bắc Ninh. Tại đó chúng tôi thấy một vài bức tranh của ông, căn phòng nơi ông làm việc, chúng tôi lắng nghe và trò chuyện với những nghệ sĩ quan họ địa phương trong một buổi tối kỳ diệu. Năm ngoái khi chúng tôi tới thăm Khe Sanh, ông thấy một bức ảnh của một nhóm bao gồm ông khi còn trẻ treo trên tường một bảo tàng. Trong bức chân dung này tôi cố gắng nắm bắt lất ông, sự kết hợp của người lính, nhà văn, học giả, mang lại hình ảnh và sự ân cần của ông.
Nhà thơ Nguyễn DuyPhòng vẽ của tôi chứa đầy phác thảo, chân dung và ảnh của Nguyễn Duy. Ông thường chụp cùng một người bạn. Tuy nhiên không có bức ảnh nào lột tả được ông hoàn toàn. Rồi tôi nhận ra rằng đó là bởi vì Nguyễn Duy luôn chuyển động, luôn làm gì đó, luôn nói chuyện, cười đùa, ngồi ở sân sau nhà chúng tôi châm thuốc lá.
Tôi vẫn nhớ lần tới thăm ông, mặc dù sau tai nạn xe máy ông bị gãy chân, ông vẫn tự ngồi dậy và tự di chuyển quanh chiếc bàn gỗ lớn trong nhà ông. Tôi nhớ lần ở Connecticut ông đặt những vật dụng từ quê nhà, những chiếc giỏ mây, thìa, chiếu quanh căn phòng của một trường trung học, giới thiệu với học sinh rằng ngay lúc đó những vật này có thể chỉ đơn giản là những thứ vô sinh nhưng với hơi thở của thi ca chúng có thể trở nên sống động. Trong bức chân dung, tôi cố gắng làm cho ông dừng lại dù chỉ là một khoảnh khắc để chúng ta có thể thấy được ông, một cậu bé tại một ngôi làng ở Thanh Hóa đang quan sát chiếc xe kéo của ông mình đi xa dần qua quả đồi, một người lính nhìn xuống một lối đi vắng, một nhà thơ nhìn vào chính khuôn mặt mình đang nhìn lại ông từ Đài tưởng niệm cựu binh Việt Nam.
Nhà văn Ma Văn KhángÝ Nhi dường như luôn mang theo mình một nguồn sức mạnh. Một sức mạnh và sự ngay thẳng. Bà gần như một nhân vật bước ra từ truyện cổ tích. Trong tâm trí tôi bà là một trong những nhà thơ có mối liên hệ lớn nhất với thơ của mình. Tôi nghĩ về Người đàn bà ngồi đan và Thư gửi con.
Tôi không bao giờ quên lần bà đọc thơ cùng Demetria Martinez tại Thư viện công cộng Boston hoặc tại Santa Fe, đọc thơ tại trung tâm Lannan, hình ảnh bà xuất hiện trên sự trống trải của sa mạc, những ngôi làng người da đỏ. Trong bức chân dung tôi cố gắng nắm bắt lấy tư thế khi bà chuẩn bị phát biểu, hình ảnh một người phụ nữ phá vỡ những khuôn mẫu và thần thoại cũ, truyền tải tới chúng tôi những gì bền vừng, tốt và có giá trị, cách để bước đi ngay thẳng trên thế giới này.
Nhà văn Lê Văn ThảoTôi đã tưởng rằng Thảo sẽ là người khó vẽ nhất. Sự nhiệt tình của ông luôn hiển hiện nhưng dường như dừng lại ở một đỉểm, một ranh giới. Tôi vẫn nhớ một đêm đọc sách tại Dorchester tại sảnh một nhà thờ. Đó là câu chuyện của ông về một trận lũ. Tôi đọc bản dịch khi ông đứng cạnh tôi. Tôi vẫn nhớ cái cảm giác khi ông hiện diện ở đó, cảm nhận sức mạnh của sự hiện diện đó, sức mạnh của một người biết rằng sẽ không thể nào kể được một câu chuyện như thế, bất cứ câu chuyện nào, theo cách mà những người khác có thể hoàn toàn hiểu được. Nhưng ông đã ở đó, tại một điểm dừng, sẵn sang với thử thách.
Trong chân dung ông, tôi cố gắng thể hiện người đàn ông sống phía sau và xa hơn đôi mắt đó, một người đàn ông luôn ghi nhớ cái giá của chiến tranh, vẫn ngạc nhiên và xấu hổ trước hành động mà lòng tốt và sự tử tế của con người và tự nhiên có thể làm được.
Nhà văn Lê Minh KhuêLê Minh Khuê là nhà văn nữ đầu tiên tới thăm chúng tôi. Tôi nhớ bà rất rõ từ hội nghị năm 1990 khi bà nghiêng người qua bàn và nhìn vào đoàn nhà văn Hoa Kỳ toàn đàn ông chúng tôi và hỏi “phụ nữ của các ông đâu?”.
Khi bà tới Hoa Kỳ, con gái tôi Lily mới chỉ hai tháng tuổi, rất nhiều kỷ niệm của tôi thời gian đó là về Khuê với hình ảnh bà bế con gái tôi. Có khoảng một tá nhà văn ở chung trong hai căn nhà cạnh nhau tại Dorchester trong vài tuần đó, sau mỗi cuộc hội thảo và đọc sách, họ thường ngồi ngoài hiên nhà mỗi buổi tối mát trời và sau đó, đó là cuộc gặp gỡ lần đầu của những cựu binh phía “bên kia”.
Bản phác thảo này là dựa trên một bức ảnh tôi chụp trong những ngày đó. Trong đó, Lê Minh Khuê, Carolyn Forche, Linda Vandervanter, một y tá tại Việt Nam trong chiến tranh, và Lady Borton ngồi quanh một bàn ăn trong bếp nhà tôi. Cái nhìn trên gương mặt mỗi người họ nói với tôi về khả năng chiến thắng của sự thân ái và lòng trắc ẩn chung sau nhiều năm chiến tranh. Tôi đã cố gắng đưa những đìều đó vào bức chân dung. Tôi đã thấy cũng cái nhìn đó nhiều năm sau khi Carolyn và Khuê gặp lại nhau tại Hà Nội.
Nhà văn Tô Nhuận VỹTrung Trung Đỉnh và tôi có vài điểm chung, trong đó một vài lần trong cuộc chiến ở An Khê, trên vùng cao miền Trung. Với tôi đó chỉ là một tuần, với Đỉnh đó là mười năm, khi mà dịch sốt rét bỏ ông lại đó với những người dân vùng cao khi mà đơn vị của ông từ miền Bắc đã chuyển đi. Ông phục vụ với tư cách người quan sát và liên lạc viên, người miền Bắc duy nhất trong đơn vị. An Khê dường như là một nơi ma quái đầy sương mù và những điều kỳ bí trong vài ngày tôi ở đó trong cuộc chiến.
Tôi vẫn nhớ rằng mình đã rất ấn tượng với những bài thơ đầu tay của ông khi được ông chia sẽ . Ông đã đọc những bài thơ đó cùng Bruce Weigl trong một buổi tối đáng nhớ. Vài năm trước tôi tới thăm Trung Trung Đỉnh tại nhà ông. Lúc đó đã tối muộn và chúng tôi phải đi qua những con hẻm để tìm tới nhà ông. Tôi đã chụp ảnh ông tối hôm đó, nhưng cho dù đang ở giữa long Hà Nội, với tôi ông dường như vẫn đang ở ngoài đó giữa rừng quan sát và quan sát như chỉ một nhà văn mới có thể. Những chuyển động của ông mang theo ánh sáng sống động nên ông cấn phải di chuyển qua những khu rừng vùng cao trong suốt cuộc chiến. Tôi đã cố nắm bắt những điều đó trong bức chân dung.
Nhà văn Phan Thị Vàng AnhNguyễn Quang Thiều với tôi luôn là một người có lửa. Tôi cố gắng đưa một chút đó vào tranh vẽ ông. Trong những ngày tháng ông sống cùng chúng tôi tại Dorchester, Dedham và Ailen, tôi không nghĩ là ông đã ngủ một chút nào. Ông luôn tỉnh táo vào ban đêm để viết những câu chuyện, những bài thơ, vẽ tranh, gọi điện về nhà cho vợ và các con ông. Ông đã chơi bóng đá với con trai tôi Myles ở sân sau, vẽ tranh cho con gái tôi Lily.
Tôi tin rằng ông là một người rất đặc biêt, một người luôn mang cố hương và dân làng trên lưng tới mọi nơi ông tới. Tôi vẫn nhớ một ngày đặc biệt tại quê nhà ông, tôi ngủ một giấc trên chiếc giường gỗ trong phòng cha mẹ ông, lắng nghe ông, Chu Lượng, và Lương Tử Đức thổi sáo, trêu đùa, và trao đổi những kỷ niệm trong vườn khi những con chuồn chuồn bay chập chờn ngoài cửa sổ.
Có rất nhiều phía để nhìn người đàn ông này, người đã dành thời thơ ấu của mình trên những con đê với những đứa trẻ khác trong làng khi bom rơi, người đã viết về những con chó làng, đôi giày của những người bạn, sự buồn phiền của một thị xã, những con bò bay qua cánh đồng khi những nhạc công làng đang chơi một bài hát. Tôi không có đủ màu vẽ trên bảng màu của mình để vẽ bức chân dung ông một cách chuẩn xác.
Thảo Vy
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất