28/01/2009 12:59 GMT+7 | Đọc - Xem
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa. |
Ruộng thấp tát một gầu giai
Ruộng cao thì phải đóng hai gầu sòng |
Thứ nhất vợ dại trong nhà
Thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn |
Sớm mai cắp nón ra đồng,
Một đôi vợ chồng với một con trâu |
Dưới gốc đa già, trong vũng bóng
Nằm mát đàn trâu ngẫm nghĩ nhai (Bàng Bá Lân, Tiếng sáo diều) |
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác, có dường không. Theo hồi kèn mục, trâu về hết, Cò bạch thi nhau liệng xuống đồng (Thiên Trường vãn vọng -
Cảnh chiều Thiên Trường -
Ngô Tất Tố dịch ) |
Ở Việt Nam vào thời bình minh của thơ Nôm, Nguyễn Trãi (1374-1442) sống nhiều nơi thôn ổ, tả nhiều cảnh nông tang, mà chỉ tả con trâu vẽ trong nghiên mực “Đầm chơi bể học đã nhiều xuân” nghĩa là con trâu vẫn... nằm chơi.
Chúa giàn nẻo khỏi tan con nghé
Hòn đất hầu làm mất cái chim (Bài 23 trong Bảo kính cảnh giới) |
Đất bụt mà ném chim trời
Chim thì bay mất, đất rơi xuống chùa |
Người hàng thịt nguýt người hàng cá
Đứa bán bò gièm đứa bán trâu (Bài 112,1983,1997) |
Ấm lạnh trọn bề vài đám ruộng
Làm ăn giữ bổn mấy con trâu |
Mài sừng cho lắm cũng là trâu,
Gẫm lại mà coi thật lớn đầu. Trong bụng lam nham ba lá sách, Ngoài cằm lém đém một chòm râu. Mắc mưu đốt đuốc (*) tơi bời chạy, Làm lễ bôi chuông (**) dớn dác sầu. Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ, Năm dây đàn khảy biết nghe đâu. |
**Bôi chuông: ngày xưa, tại Trung Quốc, người ta giết trâu để làm lễ bôi chuông. Có lần Tề Tuyên Vương thương hại, truyền lịnh tha mạng sống cho trâu.)
Một nắm xuơng, một nắm da
Bao nhiêu cái ách cũng từng qua Đuôi cùn biếng cột Điền Đan hỏa Tai nặng buồn nghe Nịnh Tử (*) ca Sớm dạo vườn Nghiêu (**) ăn hủng hỉnh Tối về nội Võ (**) thở hi ha Ngày xưa mắc phải nơi đường bệ Ơn có Tề Vương cứu lại tha |
**Nghiêu, Võ: hai ông vua đời thượng cổ; theo truyền thuyết, trâu giúp các vua này cày ruộng và trị thủy).
Từ đấy trâu được trọng vọng: trên đồ đất nung từ thời Thương Chu, hai ngàn năm trước Tây lịch đã có hoa văn hình trâu. Đời Tiền Hán - vài ba thế kỷ trước Tây lịch - đã có nhiều tượng trâu bằng đồng, nhất là vùng Vân Nam. Có lẽ tục giết trâu tế thần có từ thời thượng cổ, ngày nay vẫn còn ở một vài nơi, như miền Tây Nguyên Việt Nam, còn tục đâm trâu, giết trâu tế Dàng.
***
Trước cổ đã mang hai cái niệt (*)
Sau đuôi thêm kéo một cái cày. Miệng đã dàm, mũi lại dòng dây, Trên lưng ruồi bâu, dưới chân đỉa cắn, Trâu mệt đã thở dài, thở vắn, Người còn hầm hét, mắng ngược mắng xuôi (*Niệt: giây buộc ách) |
Người người đều bàn bạc với nhau:
Kẻ thì rằng tôi lãnh cái đầu, Người thì nói phần tôi cái nọng. Kẻ giành bong bóng ép gối mà kê, Còn sừng đem về ép thoi, làm lược... |
Ta có hai cuốn tiểu thuyết dưới nhan đề Con Trâu: cuốn trước của Trần Tiêu (1938), kể chuyện một nông dân Bắc Bộ nghèo khổ, điêu đứng, cả đời mơ ước tậu được một con trâu nái làm cơ nghiệp, và đến lúc chết vẫn còn mơ ước, lẩm bẩm hai tiếng “con trâu”. Cuốn sau, của Nguyễn Văn Bổng (1952), kể chuyện thời kháng chiến chống Pháp khu V, vùng Nam - Ngãi, lính Pháp đàn áp dân chúng, bắn giết trâu hầu làm trở ngại sản xuất; quần chúng phải chiến đấu, để tự vệ và bảo vệ trâu, đưa trâu vào rừng hay xuống hầm. Những đoạn tả việc trâu xe nước, trong lửa đạn là những trang hiện thực sinh động.
Đàn trâu ngọn gió đen ào qua trảng cỏ... (Những người đi tới biển, 1976) |
Được tiền thì mua rượu
Rượu say rồi cưỡi trâu Cưỡi trâu thế mà vững Có ngã cũng không đau. |
Orléans, 4/12/2008
Đặng Tiến
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất