Phạm Tiến Duật và Trường Sơn

16/02/2011 08:34 GMT+7 | Đọc - Xem

(TT&VH Cuối tuần) - Nhà báo Tô Hoàng, nguyên Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ báo Lao động, báo Phụ nữ TP.HCM, vốn là đồng môn Văn khoa Sư phạm Hà Nội với các nhà văn Đỗ Chu, Tô Nhuận Vỹ, Nghiêm Đa Văn, nhà thơ Phạm Tiến Duật, nhà phê bình Vương Trí Nhàn, nhạc sĩ Dương Thụ… TT&VH Cuối tuần xin trân trọng giới thiệu những khắc họa chân dung bằng kỷ niệm của anh với các người bạn văn nghệ một thuở.

Thuở còn là sinh viên khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, Phạm Tiến Duật thường bị anh em trêu chọc vì cái mũi hơi khoằm, chân tay dài ngoẵng, dáng dấp con gái. Trong cái túi vải đựng sách vở đeo bên hông, bao giờ anh cũng mang theo một cuốn sổ nhỏ chép những bài thơ ngắn, nửa như ca dao. Nhưng ít ai đoán định được rằng, sau này anh sẽ trở thành nhà thơ. Vì anh rất say mê và nhiệt tình tham gia tốp ca nam của khoa, dàn đồng ca của trường.

Đầu tháng Tám năm 1964, vừa nhận tấm bằng tốt nghiệp xong, chúng tôi xung phong nhập ngũ. Mang mộng văn chương, cần phải xê dịch, không thằng nào thích nghề “gõ đầu trẻ” cả. Tôi, Vương Trí Nhàn, Phạm Tiến Duật được điều về Sư đoàn 316, Quân khu Tây Bắc, được huấn luyện thành lính bộ binh, chuyên đánh rừng. Sau sự kiện mồng 5 tháng 8, đất nước đã bước vào thời chiến. Các đơn vị quân đội luôn ở tình trạng báo động số 1, số 2. Bị quần thảo tập tành vượt những đỉnh núi cao, những ngọn thác dữ, bữa ăn chỉ có độc món bí đỏ, nhớ Hà Nội, nhớ những nàng Đuxinê (*) vô tả, nhưng rất vui vì được thử thách, vì sổ tay dày lên những dòng ghi chép mới lạ, hứa hẹn cho những trang văn sau này.

Sau sáu tháng huấn luyện, đánh đùng một cái chúng tôi bị gọi trở về Hà Nội. Té ra, “tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”. Cho làm lính vừa đủ biết mùi vậy thôi, bây giờ đeo binh nhì về dạy văn hóa tại các binh quân chủng. Chúng tôi lồng lên làm đơn gửi khắp nơi xin được về các đơn vị, xin vào Nam chiến đấu. Để có cơ hội mà trở thành những Konstantin Simonov, Ilya Erenbuar, Ernest Hemingway… Tôi gặp may vì được gọi nhập học lớp đào tạo phóng viên chiến trường. Vương Trí Nhàn nhăn nhó vì có thể sẽ bị điều sang Quế Lâm (Trung Quốc) chăn dắt đàn “vương tôn công tử” con các vị tướng, tại trường Nguyễn Văn Trỗi. Phạm Tiến Duật vẫn dạy học ở Cục Vận tải quân sự. Chẳng bao lâu sau, chú chuột này sa chĩnh gạo: Cục Vận tải quân sự sát nhập về Bộ Tư lệnh 559 và từ đó Phạm Tiến Duật bắt đầu quãng đời Trường Sơn Đông nhớ Trường sơn Tây!

Với một bài thơ không nổi tiếng lắm trong chùm thơ Trường Sơn, bài Đồng chí lái chính, đồng chí lái phụ và Tôi, Duật viết:

...

Trong khi bụi mù tứ phía

Tôi muốn xoay cửa kính lên

Đồng chí lái chính không muốn

Đồng chí lái phụ ngồi yên

Giữa đường gặp một cô gái

Tôi nghĩ cô này xinh đây

Đồng chí lái chính hớn hở

Đồng chí lái phụ cau mày…

Buồng lái những chiếc xe tải quân sự thừa chỗ cho lái chính, lái phụ, thêm một chàng “Tôi” nữa thì có chật chội gì? Huống hồ chàng “Tôi” ấy lại là một cử nhân văn chương, biết đủ thứ chuyện kim cổ, đông Tây; cùng tuổi với lái chính lái phụ, cùng bừng tỉnh ngủ khi tình cờ xuất hiện “những bóng hồng” trên đường. Gạo, mì chính, thịt hộp, lương khô thì cánh lái xe dư thừa. Khi xe bị pa-ti-nê trong bùn lầy hoặc lúc xe lên lên dốc chàng “Tôi” săng sái, năng nổ ghé vai đun đẩy cùng họ. Chàng “Tôi“ ấy lại bình tĩnh khi xe vượt trọng điểm đang nhoáng nhoàng trong lửa đạn. Hoặc cùng lái chính, lái phụ và đám thanh niên xung phong dỡ hàng trên xe xuống khi phía đuôi xe lửa napal đã bén cháy. Duật đi theo những chuyến xe chở đạn, gạo, chở thương binh vượt các cung đoạn địch đánh phá ác liệt trên đường Trường Sơn như đi trong một giấc mộng đẹp.


Thuở Phạm Tiến Duật (thứ hai từ phải sang) là lính Trường Sơn (Hình ảnh do gia đình nhà thơ cung cấp)

Những năm ấy tôi cũng có dịp vào, ra Trường Sơn dăm ba lần mà gặp được Duật thật khó. Có tin anh đang ở trạm giao liên phía trước. Đi vượt trạm, tới nơi, anh đã rời trạm đi rồi. Lại có khi, biết anh đang đi với đội xe vào, đón đường chờ, thất vọng vì anh rẽ lên thăm một chốt phòng không cheo leo trên một đỉnh núi. Lính lái xe, thương bệnh binh đều tự hào, sung sướng vì được gặp anh, đều khoe họ thuộc nhiều bài thơ của anh, mới nghe anh đọc thơ tối hôm qua, tối hôm kia. Và sau rốt, anh chị em đều rút trong túi ngực ra bài thơ anh tự tay chép tặng mỗi người. Duật thuộc quân số Ban Tuyên huấn, Cục Chính trị, Đoàn 559. Anh dễ dàng xin cánh văn thư một xếp pơ-luya để chép thơ tặng đồng đội. Nhưng anh không thích như thế. Anh xin cánh pháo thủ thứ giấy bao ngòi liều đạn cối, đạn pháo tích sẵn trong ba lô lính để dùng làm giấy chép thơ. Nét chữ của Duật khá bay bướm, phía dưới mỗi khổ thơ anh đều vẽ một bông hoa nho nhỏ. Ngay cả phía cuối chữ ký của anh cũng ngoắc thêm một bông hoa như thế. Những bài thơ chép tay trên mẩu giấy dầu xé vội, lem nhem dầu mỡ, khói đạn, bùn đất Trường Sơn - theo Duật có gì đó chiến sự hơn, đời hơn. Duật thường khoe, anh vừa sáng tác, vừa làm luôn công tác in ấn và phát hành là như vậy.

Những lần tình cờ gặp Duật trên đường Trường Sơn hoặc khi Duật ra Hà Nội, tuyệt nhiên không bao giờ thấy anh than van suýt bị bỏng vì xe cháy ở nơi này, thoát chết ở nơi khác. Chỉ thấy anh khoe những nơi đã tới, gương dũng cảm của đồng đội ở ngầm cạn này, cua đường chữ A kia… Và đọc những bài thơ mới. Một điều lạ là những khi có dịp về lại Thủ đô, anh đều tìm mua bằng được báo Khoa học và Đời sống. Thuở ấy, ở Hà Nội, không có những tờ báo, tạp chí hoặc mạng internet đăng mọi thứ chuyện cần biết hoặc tò mò muốn biết như bây giờ. Duật đọc báo Khoa học và Đời sống, rồi thâu gom các kiến thức về cây cỏ, hoa lá, chim muông, mưa nắng... để bất ngờ tạo những chi tiết hay trong các bài thơ về Trường Sơn mà sau này chúng ta được đọc.

Nhiều người đã viết, đã nói về cái hay, cái đặc sắc trong thơ Trường Sơn của Phạm Tiến Duật. Hồn thơ, dĩ nhiên, đó là sức rung động của anh đối với cuộc sống, con người và những kỳ tích của Trường Sơn huyền thọai. Cách diễn đạt của thơ anh có phần hơi… sẩm xoan, bởi lẽ cái hiện thực anh chứng kiến hàng ngày khó khuôn bó chỉ trong thơ mà cứ muốn tuồi sang địa hạt văn xuôi. Còn cái làm nên giá trị của thơ anh - phải nói thẳng ra rằng, không có nhà thơ nào, kể cả lớp đàn anh lẫn lớp cùng thời, đã lăn lộn, đã sống chết với từng cung đường Trường Sơn; đã san sẻ vui buồn, âu lo, cùng với những người lính Trường Sơn như Duật. Anh viết: Muỗi bay rừng già cho dài tay áo. Hết rau rồi em có hái măng không?. Anh viết: Mai ngày giã bạn ta về. Nghe tiếng kẹt cửa nhớ tre rừng Lào. Anh viết: Mấy con chó đùa rỡn nhau trong rừng vắng. Gợi nhớ rất nhiều ngõ nhỏ trẻ con chơi… Những chi tiết, những liên tưởng sống động, cụ thể như thế rất nhiều trong thơ Duật và dễ gì mấy ai gặt hái được!

Hồi tôi sống ở chiến trường B3 (Tây Nguyên) anh em thường kháo nhau: Ra Binh trạm 47 (Binh trạm cuối cùng của tuyến đường Trường Sơn, nằm trên đất Nam Lào), tìm đường đường tới bản Dak-Tụt, đi một ngày tới bản Lăn Tăn, thêm nửa ngày nữa tới huyện lỵ Lằng Khằng. Ở đó sẽ gặp những ngôi chùa bom đạn chưa phá hủy, ngan ngát hương thơm hoa đại; những nhà sư Lào mặc áo cà sa màu vàng, những cô gái Lào da trắng bóc, má lúm đồng tiền ngồi quay xa dệt vải... Chao ơi là thèm khát, là ước ao với những thằng lính quanh năm ở rừng như chúng tôi. Bỗng một đêm nghe Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam ngân nga bài thơ Hang đèn chín ngọn của Duật trong đó có câu:


Buổi tiễn nhau, chỉ buộc tay rồi đó

Chăm-pa đi Lằng Khằng huyện nhỏ

Vào dân quân…

Ôi, thằng cha đã vào tận nơi đó trước mình rồi sao?.

TP.HCM, tháng cuối năm 2010, ngày Duật mất

(*) Nàng Đuxinê, người tình trong mộng của Don Kihote

Tô Hoàng

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm