Blues Việt - Đi tìm bản ngã (Bài 1)

16/05/2011 07:40 GMT+7 | Âm nhạc

Trầm Blues

“Thỉnh thoảng như vẫn luôn luôn/đau như nhát nhạc Blues buồn cắm sâu” (miên di). Bản chất của Blues là chuyển tải nỗi buồn và nhiều khi tạo nên nỗi buồn. Blues, từ khởi thủy đến tương lai luôn là một dòng nhạc được kính trọng cho dù những người khai sinh ra nó lại không được kính trọng. Blues, một không gian buồn nơi có những người ra đi sau khi đã đong đầy nỗi buồn và có những kẻ trở về khi nhận thêm những nỗi buồn mới. Một dòng nhạc mà mỗi năm đều có những kẻ hành hương về đất Tổ như thể lột xác để gặp lại mình, dòng nhạc mà mỗi năm lại lấp lánh thêm nhiều tài năng được ngả mũ kính trọng thì dòng nhạc ấy không bao giờ bị khai tử.

Chuyên đề Trầm Blues số này TT&VH Cuối tuần gửi đến bạn đọc một cái nhìn từ Blues Việt và qua đó phóng chiếu ở tầm mức cao hơn, thế giới. Từ lịch sử hình thành đến những ông thần trong ngôi đền Blues mà đến giờ vẫn gây ảnh hưởng khắp nơi.

Tổ chức chuyên đề: NGUYỄN VIỆT CƯỜNG


(TT&VH Cuối tuần) - Blues Việt từ thời có những sáng tác đầu tiên đến nay đã hơn nửa thế kỷ nhưng dòng nhạc này vẫn mảnh lẻ và trôi chầm chậm trong không gian âm nhạc Việt. Bài viết dưới đây của nhà nghiên cứu âm nhạc Jason Gibbs sẽ khơi lại một chút lịch sử Blues Việt với những mong mỏi rằng dòng nhạc này thật sự vẫn phù hợp với người Việt.

Nhạc Blues đến với Việt Nam qua những ca khúc Jazz Mỹ được phổ thông hóa trong những năm 1930-1950. Có lẽ Ngọc Bích là người soạn Blues đầu tiên, những ca khúc tự xưng là Blues sớm nhất chắc chắn sẽ phải là các bài Hồn theo gióDưới trăng thề. Bài Blues nổi bật nhất của thời kỳ này là Ai về sông Tương của Thông Đạt (tức Văn Giảng) soạn năm 1949, nhưng phổ biến rộng rãi từ 1952. Các bài này không có nhiều đặc trưng của Blues và cũng nghe rất giống các bài ca nhịp chậm êm đềm khác. Riêng Ai về sông Tương có thêm chút tiết tấu Swing thong thả, Mạnh Phát từng thu bài này cho hãng đĩa Philips do ban nhạc của Võ Đức Thu chơi phầm đệm kiểu Slow - Foxtrot. Theo quyển Để sáng tác một bài nhạc phổ thông của Hoàng Thi Thơ (soạn năm 1955) thì Blues chậm được biểu diễn với nhịp Slow Fox và Blues nhanh thì theo nhịp Swing. Chắc các nhạc sĩ tự coi những bài này là Blues vì những yếu tố ca từ mang tính tự sự và tinh thần lãng du.

Thời gian sau 1954 thì nhạc thị trường ở Sài Gòn bắt đầu chịu sự ảnh hưởng của nhạc Blues nhiều hơn, nhất là từ khi người Mỹ bắt đầu hiện diện và đóng quân nhiều ở miền Nam. Một số bài kích động nhạc như Năm phút cho em của Trường Hải soạn năm 1966 sử dụng đến cấu trúc 12 ô nhịp theo phong cách Rhythm And Blues (R&B) của Ray Charles. Từ lúc đó có nhiều bài Blues lần lượt thay nhau ra đời, phần lớn là sáng tác trong khoảng 1964 - 1970 như Đường chiều (Hồng Duyệt), Những chiều không có em, Ảo mộng (Trường Hải), Thúy đã đi rồi (Y Vân), Nhớ thành đô, Người nghệ sĩ mù (Hoàng Thi Thơ), Thuở ấy có em, Loan mắt nhung (Huỳnh Anh), Đêm nguyện cầu (nhóm Lê Minh Bằng) và Tôi còn yêu tôi cứ yêu (Phạm Duy). Thời gian này Blues Việt cũng gần gũi với nhịp Slow Rock.

Bài Blues nổi bật nhất của thời kỳ đầu Blues Việt là "Ai về sông Tương" của Thông Đạt (tức Văn Giảng) soạn năm 1949, nhưng phổ biến rộng rãi từ 1952.

Đối với tôi, bài Tình yêu trong mắt một người của Trúc Phương là một tác phẩm Blues rất đặc biệt - có thể coi như là thử nghiệm một chút. Phương Dung thu cho đĩa Asia Sóng Nhạc năm 1964 kiểu hát pha chất Blues với điệu oán nhạc dân gian miền Nam. Cuối các câu kết với nốt thứ bảy cao trong hợp âm thứ (harmonic minor) dẫn lên nốt chủ - nhưng nốt dẫn này thì hát thấp một tí như trong nhạc Blues và điệu oán. Trong phiên khúc thì có nhiều nốt Blues - nốt thứ trong hợp âm hát nửa thứ nửa trưởng, nốt thứ năm được viết với dấu giáng kiểu “blue note”. Trong điệp khúc thì nốt thứ năm hạ thấp này thành nốt thứ tư rung dẫn tới nốt thứ năm trong hợp âm như điệu oán. Theo nhà âm nhạc học Nam Phi Pieter van de Merwe (Origins Of The Popular Style - Nguồn gốc của phong cách phổ thông - 1989) thì gốc của hợp âm Blues là một gam bảy nốt bình quân (equal tempered) rất phổ thông ở châu Phi. Đi bằng đường Ấn Độ dương, gam bảy nốt này rồi cũng có mặt ở Đông Nam Á, trở thành điệu thức chính của nhạc dân gian Thái Lan và theo nhà dân tộc học Úc gốc Việt Lê Tuấn Hùng thì đây cũng là gam cơ bản cùa nhạc Huế và nhạc tài tử Việt Nam. Như vậy nhạc Blues và nhạc Việt cũng có những nét ăn khớp với nhau (song cấu trúc giai điệu của hai hệ thống rất khác nhau).

Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ Việt Nam đã khai thác Blues sâu xa nhất, nhạc sĩ này đã nhận ảnh hưởng của nhạc Blues trong các tác phẩm viết những năm 1964 đến 1966.

Có lẽ Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ Việt Nam đã khai thác Blues sâu xa nhất. Nhạc sĩ này đã nhận ảnh hưởng của nhạc Blues trong các tác phẩm viết những năm 1964 đến 1966 và có lần viết: “Tôi thấy loại nhạc này gần gũi với mình và thấy có khả năng muốn lấy nhạc này để nói lên tâm sự của mình”. Về giai điệu thì các bài như Phúc âm buồn, Vết lăn trầm có nhiều nét Blues trong giai điệu. Như tôi kể ở trên, ca khúc nhạc thị trường ở Việt Nam chỉ chịu ảnh hưởng của nhạc Blues qua dòng Blues phổ thông. Với Trịnh Công Sơn chúng ta mới thấy ảnh hưởng của thế giới quan Blues. Như Hà Vũ Trọng đã viết “nhạc Blues được “Trịnh Công Sơn hóa” nhất là trong những Ca khúc da vàng”. Các ca khúc này về nét giai điệu thì gần gũi hơn với nhạc dân gian Việt Nam, nhưng cấu trúc và khái niệm ca từ thì rất gần với nhạc Blues. Nhạc sĩ Mỹ Townes van Zandt phân biệt nhạc Blues với cái mà ông gọi là “Zip-A-Dee-Doo-Dah” là tên một bài ca của xưởng phim Disney đặt làm cho một phim hoạt hình về các truyện dân gian của dân nô lệ da đen. Ông nhạc sĩ này muốn tương phản giữa nhạc ảo tưởng và giả vờ của ca khúc trong phim này với chất đời thực và tự phát của nhạc Blues.

Blues không thể định nghĩa một cách đơn giản - ngoài những cảm giác được biểu lộ, Blues cũng gồm phong cách, cấu trúc tác phẩm, cách luyến láy, cách đàn hay biểu diễn. Blues cũng là một yếu tố quan trọng của nhiều thể loại nhạc như Jazz, Swing, Rhythm And Blues và Rock. Cũng phải phân biệt loại Blues phổ thông với cái gọi là Country Blues hay Downhome Blues (Blues quê nhà). Country Blues là nguồn gốc của Blues có những ca từ gọn và mặn mà cũng giống ca dao với những nỗi niềm, âu lo bình thường của người da đen nghèo. Khá nhiều lần những câu đôi và câu đầu được lặp đi lặp lại - “I Can Tell The Wind Is Risin’, The Leaves Tremblin’ On The Tree/I Can Tell The Wind is risin’, leaves tremblin’ on the tree/All I need’s my little sweet Woman And To Keep My Company” (Tôi thấy gió vút lên, cành lá run trên cây/Tôi thấy gió vút lên, cành lá run trên cây/Tôi chỉ cần cô bé dễ thương của tôi ngồi chơi cùng tôi - bài Hellhound On My Trail của Robert Johnson). Các câu hát này thường lệ gồm 4 ô nhịp được phát triển thành 12 nhịp Blues.

Trong các Ca khúc da vàng Trịnh Công Sơn cũng đã đơn giản hóa cấu trúc và ca từ. Tôi đang nghĩ đến những thí dụ như các ca khúc Ngụ ngôn mùa Đông, Ngủ đi con, Hát trên những xác người chỉ có phiên khúc và cũng có nhiều cụm từ lặp lại như trong ca từ Blues. Khác với nhiều bài ca khác của Trịnh Công Sơn, các ca từ kể ở trên cũng dễ hiểu và rạch ròi. Blues cũng là một cách để biểu cảm thân phận người, để nói thẳng đến tâm trạng phức tạp của người trần gian.

Tôi cũng nên nhắc đến nhạc Blues Việt qua ngả hát xẩm mà tôi từng được chứng kiến trên đường phố Hà Nội hơn mười năm trước. Nghe lại băng Xẩm đá đỏ (Quỳ Châu) tôi thấy thật khó nếu không nghĩ đến nhạc Blues. Trong những năm gần đây thì thị trường nhạc Việt đã hướng về phía châu Á hơn nước Mỹ, nhưng cũng có một số ca khúc nhạc Blues pha với jazz như Điệu Blues cho ly biệt của Quốc Bảo hay Điệu Blues mùa Thu của Jazzy Dạ Lam. Ngay cả các rocker trong những nhóm Rock Việt hiện nay cũng rất khó tránh khỏi ảnh hưởng của nhạc Blues bởi đây đơn giản là một yếu tố căn bản của Rock. Tôi nghĩ rằng nhạc Blues cũng hợp với nhạc Việt và hy vọng nhiều nhạc sĩ sẽ tìm hiểu nhiều hơn đến thể loại này.

Bài 2: Duyên nợ Blues

Jason Gibbs

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm