TTVH Online

'Lật lại' mối tình đồng giới 'khét tiếng' làng văn

03/12/2016 06:30 GMT+7

Mối tình đồng tính của hai nhà thơ Pháp Paul Verlaine và Arthur Rimbaud 'khét tiếng' trong làng văn học thế giới. Họ yêu từng yêu nhau say đắm, nhưng sau hai năm sống bên nhau, Verlaine quyết định 'dứt bỏ' người tình quay về với vợ.

(Thethaovanhoa.vn) - Mối tình đồng tính của hai nhà thơ Pháp Paul Verlaine và Arthur Rimbaud "khét tiếng" trong làng văn học thế giới. Họ yêu từng yêu nhau say đắm, nhưng sau hai năm sống bên nhau, Verlaine quyết định "dứt bỏ" người tình quay về với vợ. Nói bằng lời không được, Verlaine đã lấy súng dọa và bắn người tình trẻ.

Khẩu súng lục ổ quay ấy đã trở thành vũ khí nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học Pháp và nó đã đạt giá 460.000 USD tại cuộc đấu giá ở Paris hôm 30/11, cao gấp 7 lần so với giá dự tính.

Mối tình ngang trái đầy giông bão

Verlaine đã mua khẩu súng này ở Brussels (Bỉ) vào sáng ngày 10/7/1873 để quyết định chấm dứt mối tình nóng bỏng với người tình đồng giới tuổi vị thành niên của mình.  

Verlaine, lúc đó 29 tuổi, đã bỏ mặc vợ con mình để đi theo "tiếng gọi tình yêu" của Rimbaud, nhà thơ sau này đã trở thành biểu tượng của thanh niên nổi loạn, được các ca sĩ trong thập niên 1960 thần tượng hóa, trong đó có ca sĩ chính của ban nhạc The Door Jim Morrison.

Nhưng sau một kỳ nghỉ ám đầy khói thuốc phiện và rượu absinthe ở London, mà sau này đã truyền cảm hứng cho Rimbaud sáng tác tập thơ A Season in Hell, Verlaine muốn trở về với người vợ của mình.


Ảnh chụp Verlaine và Rimbaud năm 1873

Ông trốn khỏi thủ đô Brussels để thoát khỏi Rimbaud. Nhưng người tình trẻ đã chạy theo Verlaine. Sau này, Rimbaud kể lại một buổi chiều, trong một phòng khách sạn, hai người đã cãi lộn rồi khóc lóc và say rượu. Rồi Verlaine đã giơ khẩu súng lục lên.

"Đây là cách anh sẽ dạy cho em biết làm thế nào để rời khỏi đây!" – Verlaine hét lên trước khi bắn hai phát vào Rimbaud.

Một viên đạn đã găm vào cổ tay Rimbaud, còn viên kia bắn vào tường sau đó nảy vào ống khỏi. Nhưng Rimbaud vẫn nhất quyết nói "không" và không chịu rời đi.

Tới bệnh viên băng bó vết thương ở cổ tay, Rimbaud lại van nài Verlaine đừng từ bỏ mình. Nhưng Verlaine không chịu và lại lôi khẩu súng ra rồi đe dọa Rimbaud ở ngay trên đường.

Một cảnh sát đi ngang qua thấy vậy đã bắt giữ Verlaine và nhà thơ phải ngồi tù 2 năm kèm lao động khổ sai. Ở trong tù, Verlaine đã cho ra đời 32 bài thơ mà sau này đã được đăng trong một số tuyển tập thơ nổi tiếng nhất của ông, gồm Sagesse, Jadis et naguereInvectives.

Đều là những nhà thơ xuất chúng

Arthur Rimbaud sinh năm 1854 ở Charleville, miền Đông Bắc nước Pháp. Bố mẹ chia tay nhau khi Rimbaud mới 4 tuổi nên sự giáo dục chủ yếu là từ mẹ. Từ thời đi học, Rimbaud đã bộc lộ rõ là người rất thông minh, là một trong những học sinh xuất sắc nhất của trường.

Năm 1869, ông lần đầu tiên in 3 bài thơ viết bằng tiếng Latin, gồm Xuân đã về (Ver Erat), Thiên thần và đứa bé (L’Ange et l’enfant), Jugurtha (Jugurtha). Bài thơ Jugurtha được tặng giải nhất trong một cuộc thi thơ. Năm 1870, 16 tuổi Rimbaud in những bài thơ đầu tiên bằng tiếng Pháp, sau đó đi du lịch tới miền Bắc nước Pháp và Bỉ.

Ở Paris, Rimbaud gây xôn xao dư luận khi làm quen và trở thành người yêu của Verlaine. Năm 1872, Verlaine bỏ gia đình cùng Rimbaud đi sang London. Khi trở về Bỉ, hai người cãi nhau, Verlaine dùng súng lục bắn Rimbaud bị thương phải vào tù 2 năm, còn Rimbaud trở về quê Charleville với người mẹ độc đoán của mình và hoàn thành tập thơ A Season in Hell. Đây là tác phẩm duy nhất do Rimbaud tự xuất bản.

Song cũng kể từ đây, cuộc đời của Rimbaud sang một trang mới, ông bỏ làm thơ hẳn và đi chu du hầu như khắp thế giới. Từ năm 1880 ông sang các nước châu Phi (Ai Cập, Ethiopia, Yemen) buôn súng, buôn cà phê và da thú. Tháng 2/1891, Rimbaud bị bệnh ung thư phải quay trở về Pháp, đến tháng 10 ông qua đời ở Marseille, ở tuổi 37.

Các nhà thơ phái thơ tượng trưng gọi Verlaine là ông tổ của mình, còn nghệ thuật thi ca gọi tập thơ Romances sans paroles của ông là tuyên ngôn. Tuy vậy, sự ảnh hưởng của Verlaine không chỉ giới hạn trong phạm vi một trường phái thơ. Verlaine là người sáng tạo một nghệ thuật thơ mới, phục hồi mối liên hệ với thơ ca dân gian, giữ gìn truyền thống nghệ thuật của thơ ca Pháp mà sau đó được các nhà thơ lớn của Pháp trong thế kỷ 20 tiếp nối.

Còn Paul-Marie Verlaine sinh năm 1844 ở Metz. Năm 1855, Verlaine vào học trường Lycee Bonapart ở Paris và đã bộc lộ say mê thơ ca. Năm 1870, ông in tập thơ La bonne chanson (Bài ca tốt lành) tặng người yêu mà sau này là vợ, Mathilde Maute. Sau khi chiến tranh Pháp – Phổ xảy ra, Verlaine phải vào lính nhưng thường xuyên lẩn tránh nghĩa vụ nên phải bị tống vào trại giam một tuần.

Thời gian sau đó là những năm tháng tình ái của ông với nhà thơ trẻ Rimbaud. Hai người đi sang Bỉ và Anh. Đây là quãng thời gian Verlaine viết những bài thơ hay nhất của mình. Năm 1874, ông in tập thơ Romances sans paroles (Những khúc lãng mạn không lời).

Sau khi mãn hạn tù, Verlaine bị vợ và gia đình từ chối nên ông sang Anh dạy tiếng Pháp, dạy vẽ và làm gia sư. Năm 1882, ông trở về Pháp sống và làm việc ở nhiều nơi. Năm 1895, ông viết bài giới thiệu cho "Tuyển tập tác phẩm Arthur Rimbaud". Năm 1896, ông in tác phẩm cuối cùng La Mort (Cái chết).

Verlaine mất ở Paris hồi tháng 1/1896 và được mai táng tại nghĩa trang Batignolles. Có 3.000 người đến dự lễ tang của ông.

Mặc dù sống một cuộc đời ngắn ngủi nhưng Rimbaud đã đánh dấu một mốc mới trong sự phát triển của thơ ca Pháp. Ông là người có công trong việc làm giàu ngôn ngữ, hình tượng cũng như thể loại thơ ca… Nửa cuối thế kỷ 20, Rimbaud trở thành một hiện tượng văn hóa đại chúng. Hình tượng Rimbaud được thể hiện qua rất nhiều bộ phim nổi tiếng thế giới.

Việt Lâm (tổng hợp)
Thể thao & Văn hóa

Bản quyền © Báo điện tử Thể thao & Văn hóa - TTXVN