Ghi chép Văn hoá - tập tục: Tao và mày

15/04/2012 14:04 GMT+7 | Văn hoá

(TT&VH) - Trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người Việt, có rất nhiều đại từ dùng cho ba ngôi thứ nhất, thứ hai và thứ ba, trong khi hầu hết các ngôn ngữ khác, đại từ nhân xưng rất đơn giản, như tiếng Anh chẳng hạn, chỉ có I và You, ngôi thứ ba He, She và It, cùng số nhiều của ba ngôi đó.

1. Chúng ta có thể kê ra hàng loạt đại từ nhân xưng trong tiếng Việt như : Tôi, ta, tao, tớ, mày, anh, em, chị, cô, chú, bác, ông, cụ, nó…Nghĩa là ngoài một số đại từ cơ bản như tôi và anh, mày và tao, thì có vô số đại từ vốn chỉ thứ bậc và quan hệ huyết thống trong gia đình được đưa tuốt ra ngoài xã hội. 



Đàn bà cãi nhau. Hình trong sách "Kỹ thuật của người An Nam", Henri Oger, xuất bản đầu thế kỷ 20.

Một số đại từ lại được nói trong cả hai ngôi, vì dụ ta có thể xưng chị, đưa cho chị cái này (ngôi thứ nhất) rồi lại gọi một cô gái khác là chị ơi, chị đi đâu đấy (ngôi thứ hai). Việc xưng hô như vậy làm cho tiếng Việt trở nên phong phú, nhưng cũng phức tạp và phiền hà không kém, trở thành một ngôn ngữ mang nhiều mầu sắc lễ nghĩa tôn ti.

Nhưng tiếng Hán của người Hán vốn là một dân tộc sinh ra Nho giáo với nhiều nghi lễ phiền toái, lại chỉ có ba ngôi xưng hô thông dụng : Ủa, Nỉ và Tha (1,2,3 ).

Tất nhiên trong chốn quan trường, công sở, thi lễ thì tiếng Hán được dùng để xưng hô cũng phức tạp bậc nhất, người ta phải tùy từng địa vị, quan hệ, hoàn cảnh mà ăn nói cho đúng phép – một thứ kính ngữ sâu sắc và lôi thôi chưa từng có. Khi hai kẻ sỹ gặp nhau, họ nói là Thưa túc hạ (tôi chỉ dám nói với cái chân của ngài), gặp quan trên, bề trên thì Thưa các hạ (tôi chỉ dám nói với cái gác của ngài), gặp hoàng tử, thái tử thì nói Thưa Điện hạ (tôi chỉ dám nói với cung điện của ngài), yết kiến vua thì thưa Tâu Bệ hạ (tôi chỉ dám nói với cái bệ của nhà vua). Rồi gọi nhau là Đại nhân, Tiên sinh, Thượng quan, Tướng công, Đại phu, Tráng sỹ, Hiền sỹ, Tướng quân… tức là những chức tước cũng được dùng thành ngôi thứ hai ba để kính ái nhau. Ngược lại kẻ làm vua lại xưng khiêm tốn, ví dụ xưng Cô (kẻ cô đơn này), Quả nhân (kẻ cô độc này), trẫm (kẻ ngu tối này)… kèm theo lối ăn nói văn hoa, khen ngợi, xưng tụng, tâng bốc. Ví dụ: Nghe danh ngài như sấm dậy bên tai đã lâu, nay gặp mặt mới thỏa lòng mong ước/ Tôi gặp ngài khác nào quạ dám sánh với phượng hoàng, ngựa hèn sánh với kỳ lân/ Đức độ của ngài lan ra bốn bể, khắp hang cùng ngõ hẻm, ai ai cũng nghển cổ trông ngóng/ Lời của ngài chúng tôi đã phải rửa tai chín lần để chờ đợi…

Mặc dù kính ngữ phức tạp như vậy, nhưng trong khi nói chuyện, người ta chỉ cần thưa tôn kính lần đầu, còn những câu nói sau có thể quay lại Nhĩ – Ngã như bình thường. Giống như ta nói tiếng Anh : Thưa Tiến sỹ, anh có khỏe không? Điều này là hoàn toàn khác với tiếng Việt, người ta căn bản không thay đổi đại từ nhân xưng trong suốt cuộc nói chuyện, hoặc là phải dùng đại từ tương đương với tuổi tác của người đang nói.

2. Nghe những người thiểu số nói chuyện, tôi thấy hai ngôi tao, mày duy nhất cũng được dùng phổ biến, điều này cũng thấy cách đây ba bốn mươi năm ở các tỉnh từ Thanh Hóa đổ vào trong. Tất nhiên chênh lệch tuổi tác và có quan hệ họ hàng các ngôi vẫn phức tạp, nhưng quan hệ bình thường, việc dùng tao, mày và nói là mi với tau là rất phổ biến.

Cha mẹ nói với con cái, anh em gần tuổi nói với nhau, đàn ông đàn bà cùng trang lứa… tất cả phổ biến là mi và tau. Đó là ngữ âm cổ của người Việt, thấy khắp từ Thanh Hóa đến các xứ Quảng. Tôi nghi ngờ rằng vào một thời xưa nào đó người Việt cũng chỉ dùng phổ biến đại từ nhân xưng đơn giản tao và mày, rồi vì một lý do nào đó, thời nào đó, cách thức xưng hô thay đổi theo chiều hướng gia đình hóa cho tới hiện nay.

Chuyên mục do nhà phê bình Phan Cẩm Thượng thực hiện, xuất hiện vào số Chủ nhật hàng tuần.

3. Trong một văn bản tại hội nghị giải quyết những bất đồng liên quan đến thuật ngữ Ki tô giáo bằng tiếng Việt, do Quyền Giám sát dòng Tên hai vùng Trung Nhật triệu tập tại Macao năm 1645, hội nghị có đưa ra mô thức rửa tội bằng tiếng Việt có câu như sau: Tau rữa mâi nhân danh Cha uà  Con, uà spirito santo - Tao rửa mày nhân danh Cha và Con, và spirito santo (Tham khảo từ cuốn Dinh trấn Thanh Chiêm Quảng Nam, Đinh Trọng Tuyến và Đinh Bá Truyền biên soạn). Trong hội nghị này có 35 giáo sỹ, 31 phiếu thuận, 2 phiếu trắng và 2 phản đối trong đó có Alexandre de Rhodes, nhưng nghị quyết vẫn được thông qua. Ở đây ta thấy việc xưng hộ giữa cha xứ và con chiên được nói bằng hai ngôi tau (tao) và mâi  (mi, mày). Nếu ngày nay một đức cha mà xưng mày, tao với con chiên trong nhà thờ thì quả không ổn, nhưng điều đó cho thấy có thời việc xưng hô hai ngôi đơn giản là rất phổ biến ở Đàng Trong, nhất là xứ Quảng Nam, nơi cha Francissco de Pina (? – 1625) được coi là người đầu tiên dùng chữ Latin phiên âm tiếng Việt.

 (còn tiếp)

Phan Cẩm Thượng



Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm