Một thế kỷ trừu tượng

12/04/2010 08:45 GMT+7 | Văn hoá

Chuyên đề: Hội họa trừu tượng 100 năm


Tác phẩm Bùa (Le Talisman), 27 x 21.5cm, sơn dầu trên gỗ, 1888, của Paul Sérusier, nay thuộc bảo tàng d’Orsay, ở Paris – được xem là tác phẩm khởi hứng cho hội họa trừu tượng của phương Tây.
Theo chiết tự Hán-Việt, trừu tượng có thể được hiểu như sau: trừu, nghĩa là giữ lại; tượng, nghĩa là hình ảnh; vậy thì hội họa trừu tượng là một kỹ thuật, một thao tác nhằm “giữ lại” những hình ảnh để nó “không đi vào” trong tác phẩm. Những hình ảnh này có thể đến từ bất cứ thứ gì: thiên nhiên, hiện thực, tư tưởng, tình cảm...

Nhiều nghiên cứu ở phương Tây cho rằng, qua các tác phẩm như Bùa (Le Talisman, 1888) của P.Sérusier, Cánh đồng lúa mì với quạ (Les champs de blé aux corbeaux, 1890) của Van Gogh, Tiếng thét (Le Cri, 1893) của E.Munch, Ngựa trắng (Le Cheval blanc, 1898) của Gauguin, Những bông hoa loa kèn nước (Les Nymphéas, 1916) của Monet… là những phát xuất sớm của kỹ thuật và cái đẹp trừu tượng.

Về cột mốc 100 năm hội họa trừu tượng, nhiều ý kiến cho rằng tác phẩm trừu tượng thực thụ là Thủy mặc trừu tượng (Aquarelle abstraite) mà Wassily Kandinsky (1866-1944) vẽ năm 1910. Ông chính thức bỏ chức giáo sư đi Munich học hội họa vào năm 1896. Năm 1908, sau khi vượt qua các yếu tố tượng trưng, tranh của Kandinsky dần đạt đến sự trừu tượng, mà loạt tranh Bố cục, ngẫu tác, ấn tượng đã thể hiện khá rõ.

Về sau cũng có nhiều ý kiến cho rằng kỹ thuật trừu tượng có bắt nguồn một phần từ tinh thần thiền tông và hội họa thủy mặc của Đông Phương. Xuất phát của nghiên cứu này vì Kandinsky đến từ Nga, ông là một nhà văn, người nghiên cứu và viết về mỹ thuật, trong đó có mỹ thuật của phương Đông trước khi vẽ trừu tượng. Bên cạnh đó, một bậc thầy trừu tượng khác là Hans Hartung (1904-1989), nhà tiền phong của nghệ thuật phi hình thể (Art Informel, còn gọi là Tachisme: chủ nghĩa vệt màu), người đã gặp Kandinsky ở Munich, qua Bắc Kinh học về thiền, trước khi vẽ tranh trừu tượng vào năm 1922.

Riêng hội họa trừu tượng ở Việt Nam, đến nay nhiều ý kiến vẫn tạm cho Tạ Tỵ (1921- 2004) là một họa sĩ tiền phong, khi những năm đầu của thập niên 1950 ông đã vẽ những bức tranh trừu tượng. Nếu cứ liệu về cột mốc này đúng, thì tính đến nay, hội họa trừu tượng Việt Nam đã có khoảng 60 năm lịch sử (?).


(TT&VH Cuối tuần) - Người ta thích đặt sóng đôi những phát minh của vật lý lý thuyết và những phát kiến mỹ thuật châu Âu thập niên đầu thế kỷ 20. Một bên là những thuyết tương đối, thuyết lượng tử, quang điện… bên kia là các thứ “chủ nghĩa” mỹ thuật như lập thể, trừu tượng, biểu hiện… Đó là giai đoạn động đất, động trời làm đảo lộn, thay đổi tận gốc rễ, nền tảng của khoa học và nghệ thuật. Thế giới thay đổi hay cách lý giải và cách nhìn nó đã thay đổi?

Những bức tranh trừu tượng đầu tiên được quy ước là của họa sĩ Nga V.Kandinsky. Ông là tổng giám đốc đầu tiên của các bảo tàng ở Nga thời Xô-viết nhưng rồi đã lưu vong sang Đức, cầm đầu nhóm Kỵ sĩ xanh, ở đó, ông là giáo sư trường Bauhaus danh tiếng, một lý thuyết gia chiến đấu không mệt cho nghệ thuật mới bên các bậc thầy cự phách khác như P.Klee, Gropius, Le Corbusier… Từ những tranh phong cảnh vẽ theo kiểu dân gian, Kandinsky lược bỏ mọi yếu tố tả kể, vốn là xương sống của nghệ thuật cổ truyền, xóa bỏ mọi thứ giúp người xem nhận diện được các đối tượng mà họ cho là đã được họa sĩ mô tả. Chỉ còn lại các yếu tố hội họa thuần túy như màu, nét, khối, hòa sắc cùng không gian, nhịp điệu, kết cấu của các yếu tố thị giác nguyên thủy nhất. Vì vậy lúc đầu loại tranh này còn được gọi là hội họa không đối tượng, hội họa không hình, hội họa cụ thể, hội họa thuần túy… Bức tranh giờ đây không còn là cái cửa sổ để người xem nhìn qua đó thấy một cái gì đó ngoài nó. Nó không đại diện, môi giới, PR… cho cái gì nữa, nó chỉ là một đồ vật cụ thể. Người ta thưởng thức nó như bản nhạc không lời mà không đòi phải “hiểu” nó đang định thể hiện, mô tả, kể lể cái gì.


Tác phẩm Cực đen (Black Cirkle), 106.4 x 106.4 cm, sơn dầu trên bốn năm 1913,
của Kazimir Malevich, nay thuộc  Bảo tàng quốc gia Nga, đặt tại St.Petersburg.


Cùng với sự phát triển ở Đức là chủ nghĩa kết cấu ở Nga với các nhà điêu khắc như Lizissky, Gabo… và một nhà tiền phong đơn độc là K.Malevich với trường phái mà ông tự đặt tên là trí thượng (Supremmatism, có nơi dịch là tối thượng – TT&VH). Sau khi quy các bộ phận thân thể những cô gái và ông già nông dân Nga thành các khối cơ bản như chóp, trụ, cầu, lập phương, tam giác… ông đi tới bức hình vuông, trong hình vuông chẳng có gì ngoài một hình vuông xám trong hình vuông trắng của khung vải vẽ.

Song song với Malevich ở Tây Âu có Mondrian đi từ triết xuất hình cây táo xum xuê, rườm rà thành các sơ đồ hình học, chỉ còn các nét tung, hoành và chéo, chia mặt tranh thành các hình vuông, chữ nhật và tam giác trong ba màu cơ bản: đỏ, vàng, lơ. Trừu tượng hình học đi tới tối giản về ngôn ngữ và triết lý. Nó gần như trùng với quan niệm thế giới được người họa sĩ thiền Nhật Bản là Sengai (thế kỷ 18) trong bức tranh chỉ có ba hình vuông, tròn, tam giác. Nó cũng không xa các thể hiện ngũ hành của Trung Hoa với ba màu vàng (trung tâm của hoàng đế), đỏ (Đông-mọi), lục (Nam-man), đen (Tây-rợ) và trắng (Bắc-di)…!

Tác phẩm Cánh đồng lúa mì với quạ (Les champs de blé aux corbeaux), 103 x 50cm, sơn dầu trên bố, 1890, của Van Gogh, nay thuộc Bảo tàng Van Gogh ởAmsterdam – được xem là tiền thân của hội họa trừu tượng.

Không thể phủ nhận rằng lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa trừu tượng đã trở thành nền tảng cho mỹ thuật hiện đại nói chung mà nơi ứng dụng nó triệt để nhất là design (thiết kế) và kiến trúc. Ngôi nhà chọc trời hình hộp đầu tiên bằng kính, bê tông, thép với các đường tung và hoành của Mies Van der Rohe (1951) là bức trừu tượng khổng lồ sẽ kéo theo cả “đàn khủng long kính thép” vô cảm sẽ xâm chiếm toàn bộ các đô thị hiện đại! Trong mọi đồ vật ta dùng hôm nay từ cái bút, cái ghế tới máy móc, xe hơi, thời trang… đều có dấu vết cây đũa điều khiển của lý thuyết trừu tượng.

Từ những năm 1960 sự “thống trị hà khắc” chủ nghĩa quốc tế và sự duy lý vô cảm của trừu tượng đã bị lên án. Lúc đó tại Mỹ xuất hiện phái “trường màu” (Colorfield) chỉ dùng các mảng màu thuần túy và đặc biệt mạnh là phái biểu hiện trừu tượng (Abstract Expressionism) khởi từ các bức tranh vẽ theo kiểu rắc màu và hành động ngẫu hứng- (Action painting). J.Pollock là người hùng tiền phong, chủ soái của phái này và cũng là biểu tượng đưa Mỹ lên vị trí cầm đầu nghệ thuật phương Tây cho tới gần đây.

Ngày nay trừu tượng phổ biến khắp thế giới. Hầu như họa sĩ, nhà điêu khắc nào, ở đâu cũng có lúc vẽ trừu tượng và chỉ ở các trường mỹ thuật rất lạc hậu thì các lý luận nền tảng của nó mới không được giảng dạy. Loại tác phẩm bán trừu tượng (semiabstract) còn phổ biến hơn. Nó tạo dư địa rộng lớn giữa cái có hình và không hình, mô tả một cách ám chỉ, nơi chơi đùa giữa các yếu tố tạo hình thuần túy và các ám ảnh tâm lý hay các hình thể tượng trưng.

Bới tung nền tảng cũ, xây đắp nền móng mới trừu tượng đồng thời mở rộng biên giới của sáng tạo thị giác như một thể loại mới.

100 năm trừu tượng có lẽ đã kết thúc một vòng đời: từ tiên phong tới cổ điển. 

Khái niệm trừu tượng

“Nghệ thuật trừu tượng có thể được dùng theo nghĩa rộng nhất để chỉ bất cứ nghệ thuật nào không thể hiện những đối tượng dễ nhận biết (thí dụ như nghệ thuật trang trí), nhưng thường được dùng nhiều nhất cho các hình thức nghệ thuật của thế kỷ 20, trong đó quan niệm nghệ thuật truyền thống châu Âu, như sự mô phỏng thiên nhiên chẳng hạn, bị gạt bỏ. Mặc dầu nghệ thuật trừu tượng hiện đại đã phát triển trong rất nhiều phong trào và “chủ nghĩa”, ta có thể nhận thấy 3 khuynh hướng cơ bản, trong đó: 1) giảm bộ mặt thiên nhiên tới mức tối thiểu, nghĩa là những hình thức được đơn giản hóa triệt để, điển hình là tác phẩm của Brancusi; 2) xây dựng đối tượng nghệ thuật từ những hình thức phi biểu hình cơ bản, như trong các phù điêu của Ben Nicholson; 3) sự diễn đạt “tự do” theo ngẫu hứng, như trong hội họa động tác (action painting)”, theo Từ điển mỹ thuật (NXB Văn hóa thông tin, 3/1998) do Lê Thanh Lộc biên soạn.

“Hội họa trừu tượng, trải qua nhiều bước thăng trầm kể từ khi ra đời, có thể được phân ra làm ba giai đoạn chính: giai đoạn đầu (1908- 1920) với một số họa sĩ có thể đếm trên đầu ngón tay, phong cách trừu tượng hình học thuần túy, có: Mondrian, Theo Van Doesburg, Malevitch, Albers...; phong cách biểu tượng trừu tượng, có : Kandinsky, Franz Marc; phong cách lập thể trừu tượng, có: Fernand Léger, Delaunay, Marcel Duchamp...; phong cách vị lai trừu tượng, có nhóm các họa sĩ Ý: Umberto Boccioni, Severini, Balla...; chuyển từ ấn tượng sang trừu tượng, có nhóm các hoạ sĩ người Nga: Michel Larionov, Natalia Gontcharova… Kịp đến những năm sau đại chiến thứ hai, ở Mỹ và Âu châu, mới lại có một sự nở rộ của hội họa trừu tượng với những tên tuổi mới, như : Jackson Pollock, với phong cách dripping, Frank Kline, Rothko, Reinhardt... (Mỹ) và Hartung, Soulages, Vedova... (Âu châu). Trong nền hội họa trừu tượng đương đại, có thể phân biệt được nhiều xu hướng và nhiều phong cách, nhưng nhìn chung, vẫn là xuất xứ từ những phong cách kể trên. Có điều, bên trong các phong cách đó, người ta phân biệt được thêm hai xu hướng chính, có thể coi như hai đối cực: đó là xu hướng thiên về nhịp điệu, và xu hướng thiên về ký hiệu”, trích trong bài 100 năm hội hoạ trừu tượng của Văn Ngọc.


Bài 2: Trừu tượng.vn@...
Nguyễn Quân

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm