Văn hóa trà Việt đang bị lép vế!

07/03/2010 11:39 GMT+7 | Văn hoá

(TT&VH) - Sinh trưởng trong một gia đình 5 đời làm nghề ướp trà hương nổi tiếng ở Hà Nội, cha con nghệ nhân Trường Xuân, Hoàng Anh Sướng (Hiên trà Trường Xuân, 13 Ngô Tất Tố, HN) chỉ muốn dành trọn cuộc đời cho mục đích cao cả là khôi phục, tôn vinh nền văn hóa trà VN. TT&VH đã có cuộc trò chuyện với nghệ nhân Hoàng Anh Sướng về những khát vọng, trăn trở bấy lâu trên con đường phục hưng văn hóa trà Việt.

Cách uống trà độc nhất vô nhị


* Trước tiên, xin anh cho biết cái nhìn chung về văn hóa trà Việt Nam?

- Sự xuất hiện sớm của cây chè đã đưa người Việt Nam lên hàng những dân tộc biết uống trà sớm nhất thế giới. Minh chứng sinh động cho nhận định này là cánh rừng chè cổ thụ bạt ngàn khoảng 80.000 cây trải dài suốt một dải Suối Giàng thuộc Văn Chấn, Nghĩa Lộ (Yên Bái), trong đó có nhiều cây cao 4 - 5m, đường kính đến 3 người ôm không xuể. Đây là niềm tự hào rất lớn của người dân đất Việt về trà. Bởi những cây chè cổ thụ như thế, trên thế giới, có thể dễ dàng đếm hết trên mấy đầu ngón tay. Ngay Trung Hoa - một “vương quốc trà” lớn nhất thế giới cũng không hề có cây chè nào “nhiều tuổi” như thế.

Đặc biệt, năm 1968, các nhà khoa học đã tìm thấy dấu tích của lá và thân cây chè hóa thạch ở đất tổ Hùng Vương (Phú Thọ). Xa hơn nữa, họ còn nghi ngờ cây chè có từ thời văn hóa Sơn Vi , cách đây khoảng 10 vạn năm.


Nghệ nhân Hoàng Anh Sướng tại “Đêm hội trà hoa”
* Còn thực tế ngày nay thì sao, thưa anh?

- Đó là Việt Nam chúng ta đã và đang sở hữu một cách uống trà có thể nói là độc nhất vô nhị trên thế gian, đó là bát chè tươi bình dị ở chốn quê. Đối với bất kỳ một gia đình nông dân nào ở Việt Nam thì “bát chè là đầu câu chuyện”. “Mấy khi khách đến chơi nhà/ Đốt than quạt nước pha trà người xơi. Trà này quý lắm người ơi/ Mỗi người một chén cho tôi vừa lòng” (Mời trà, quan họ Bắc Ninh).

Qua bát chè tươi bình dị ấy, họ có thể tâm sự với nhau rất nhiều điều. Từ chuyện cày cấy, mùa màng, chuyện con em học hành ở làng, chuyện nhân tình thế thái... Nhờ đó, họ hiểu nhau nhiều hơn và tình làng nghĩa xóm được thiết chặt. Song điều tôi muốn nhấn mạnh hơn nữa là cách uống chè tươi giản dị ấy, chỉ Việt Nam chúng ta mới có. Và điều dễ lý giải là: bởi vì cây chè xuất hiện ở nước ta quá lâu đời và khởi thủy của loài người uống trà là giản dị như vậy.

Cần mở nhiều phòng trà truyền thống

* Thưa anh, ở Việt Nam có nhiều sách viết về văn hóa trà không?

- Có một thực tế đáng buồn là ở nước ta, cho đến ngày hôm nay, vẫn chưa có một cuốn sách chuyên khảo nào về trà mặc dầu chúng ta đã có bề dày lịch sử uống trà hàng ngàn năm, và đã có những thời kỳ phát triển rực rỡ muôn hồng ngàn tía. Trong khi đó, ở Trung Quốc, người ta không thể thống kê được chính xác hiện nay có bao nhiêu cuốn sách viết về trà. Nhưng ước chừng trên dưới 1.000 cuốn (?).

* Đó cũng là nguyên nhân làm cho văn hóa trà Việt bị mai một?

- Đúng vậy. Bây giờ, rất nhiều người muốn tìm hiểu về văn hóa trà Việt Nam mà không thể tìm đâu ra sách, tài liệu. Đã thế, các hoạt động truyền bá văn hóa trà từ nhiều năm nay lại bị coi nhẹ. Trà, với người phương Đông, là một sản phẩm đặc biệt vì nó là sự kết tinh của văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Cải tiến công nghệ, kỹ thuật... là cần thiết để tăng sản lượng, nâng giá trị của trà lên. Nhưng chúng ta cũng cần phải quảng bá nó một cách sống động, hấp dẫn dưới nhiều hình thức để trước hết, cho người Việt Nam hiểu về trà Việt Nam, yêu trà Việt Nam...

Gần đây, hoạt động văn hóa trà tuy đã được chú ý, song hình thức và nội dung hoạt động chưa phong phú, hấp dẫn, chưa thể hiện hết các cung bậc, sắc màu nên trà chưa trở thành nhu cầu thẩm mỹ của nhiều người uống trà. Với nhiều người Việt Nam, trà vẫn đơn thuần là một thứ giải khát bình dân, rẻ tiền. Trong khi đó, những nước láng giềng bên cạnh như Trung Quốc, Nhật Bản... thì họ lại quảng bá quá tốt, cho nên văn hóa trà Việt có bị lép vế cũng là điều dễ hiểu.

* Có thể dẫn chứng bằng một hiện tượng cụ thể về sự mai một của văn hóa trà Việt được không, thưa anh?

- Kể ra thì nhiều lắm. Nhiều khi rất đau lòng. Cho đến tận bây giờ, nhiều khách đến Hiên trà Trường Xuân, nhìn thấy trà Tân Cương liền hỏi: “Anh ơi! Trà Tân Cương là của Trung Quốc à?”. Hay trong một lần tuyển người hầu trà cho Hiên trà Trường Xuân, đứng trước câu hỏi của cha tôi (cụ Trường Xuân - PV): “Theo anh chị, ở Việt Nam có những loại trà đặc sản nào?” thì có đến 18/24 thí sinh (đều là sinh viên hoặc đã tốt nghiệp cử nhân) đều dõng dạc kể tên nào Quý phi trà, Dũng sĩ trà, Dimah trà... Thật là xót xa!

* Theo anh, để “con thuyền văn hóa trà vốn đã mỏng manh, yếu ớt” vượt qua được “sóng to gió lớn với sự càn lướt tung hoành của những trà ngoại, chúng ta phải “chèo chống” thế nào đây?

- Tôi nghĩ, muốn phục hưng nền văn hóa trà Việt Nam mà chỉ trông cậy vào sức vóc, tâm huyết của những người làm trà như chúng tôi không thì chưa đủ. Trọng trách lớn thuộc về Tổng công ty chè và Hiệp hội chè Việt Nam với một trong nhiều chiến lược hàng đầu, cần nhiều tâm huyết là quảng bá văn hóa trà. Muốn làm được việc đó cần phải có sự giúp sức của Nhà nước. Chúng ta cần tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động truyền bá văn hóa trà, tổ chức tuần văn hóa trà, các cuộc thi chất lượng tay nghề, các cuộc hội thảo chuyên đề, các cuộc vận động sáng tác về ngành chè. Xây dựng nhiều hơn các phòng trà truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa VN. Thành lập các Câu lạc bộ những người yêu thích trà. Và điều quan trọng là hãy quan tâm hơn nữa đến cuộc sống của những người làm trà trên những cánh đồng chè đang dầu dãi một nắng hai sương. Có như thế, trà VN mới không phải ngậm ngùi phiêu dạt trong những quán cóc vỉa hè nhường chỗ cho trà ngoại thỏa sức tung hoành ngang dọc khắp chốn.

* Xin chân thành cảm ơn anh!

Huy Thông (thực hiện)

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm