Trên hành trình viết của mình, vẫn là giọng văn đậm phương ngữ Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư thử sức ở nhiều mảng đề tài, trong đó có những câu chuyện về tình yêu nam nữ. Tình yêu được Nguyễn Ngọc Tư miêu tả khá nhẹ nhàng, chủ yếu đi vào tâm trạng và cái nhìn của những thiếu nữ mang đậm tính cách miệt vườn chân chất.
Truyện ngắn Ngổn ngang (?) cho thấy sự hoang mang của tuổi trẻ trước tình yêu, trong đó nữ phóng viên Bên Sông lưỡng lự giữa tình yêu với hai người, Bảo và Nguyên. Cho dù bị lừa dối, cô vẫn không sao quên được Bảo để đến với Nguyên. Câu chuyện kết thúc trong tình trạng ngổn ngang của cảm xúc và những dự cảm yêu thương. Tâm trạng này sẽ còn được Nguyễn Ngọc Tư miêu tả tương tự trong các truyện ngắn: Huệ lấy chồng (2004), Duyên phận So Le (2004); Tình thầm (2007)…
Nguyễn Ngọc Tư có lẽ hay nghĩ đến “cái tình đằm thắm, sâu lắng của những người già” khi một loạt truyện ngắn của cô kể về những mối tình già. Truyện Cuối mùa nhan sắc (2004) là câu chuyện tình thầm lặng của của ông với đào Hồng trong nhà dưỡng lão “Buổi chiều”. Cái nhìn khắc khoải (2005) là câu chuyện về một người ông lão cả đời chăn vịt chạy đồng, bỗng một ngày nhận ra mình cần dựng một căn nhà đủ vững chãi để ngồi chờ đợi một người đàn bà. Và những mảnh đời chênh vênh với một quá khứ đè nặng mà họ không sao vượt thoát, khi ngày hôm qua cay đắng, ngày hôm nay trớ trêu tiếp tục thấy lại trong Một trái tim khô (2005).
Biểu tượng - cánh đồng
Kể từ Một dòng xuôi mải miết (2004), Thương quá rau răm (2004), Nước chảy mây trôi (2005), Nguyễn Ngọc Tư đã khai thác được nét biểu cảm của vùng sông nước nhưng không gian kênh rạch, cửa sông, cánh đồng đã xuất hiện đậm đặc, thậm chí trở thành những biểu tượng trong văn xuôi của Nguyễn Ngọc Tư chính là Cánh đồng bất tận.
Nguyễn Ngọc Tư
Sinh năm 1976 Quê quán: Cà Mau Hiện sống và làm việc ở Cà Mau
Tác phẩm chính đã xuất bản:
Ngọn đèn không tắt (tập truyện-NXB Trẻ-2000).
Ông ngoại (tập truỵên thiếu nhi-NXB trẻ-2001).
Biển người mênh mông (tập truyện-NXB Kim đồng-2003).
Giao Thừa (tập truyện- NXB Trẻ - 2005).
Nước chảy mây trôi (tập truyện và ký-NXB Văn nghệ TP. HCM-2004).
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ( tập truyện-NXB Văn hoá Sài Gòn-2005).
Cánh đồng bất tận ( tập truyện-NXB Trẻ-2005).
Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư ( NXB Trẻ-2005).
Ngày mai của những ngày mai ( Tạp văn-NXB Phụ Nữ-2007).
Gió lẻ ( tập truyện-NXB Trẻ-2008).
|
Từ những làng quê yên ổn cầm chừng trong sự đói nghèo ấy, đã có những cuộc ra đi, những con người ra đi, đến nơi chốn của thị thành rợp ngợp. Chính nó tạo nên một khoảng trống trong tâm hồn người ở lại, một cái gì đó cựa quậy, bất an. Nhưng Nguyễn Ngọc Tư không kể câu chuyện của người ra đi mà kể câu chuyện của những người ở lại, trong tiếng gọi khản giọng và “cái nhìn khắc khoải”. Sự chờ đợi trong khoảng không u buồn, tĩnh mịch vẫn dợn gợp, mênh mông và thấm vào da thịt. Nhưng rồi, rốt cuộc, chính họ (những người chờ đợi) lại phải ra đi, không phải do không còn chịu được sự ngưng đọng của thời gian, không phải cảm giác bị bỏ rơi mà là cảm giác đã đánh mất hạnh phúc mong manh cần được chăm chút, nâng niu, đánh mất những khao khát bị sự yên ổn cầm chừng che giấu. Họ bước vào cuộc kiếm tìm đau đáu nhưng vô vọng trong khao khát giã từ lưu lạc.
Trong Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư thiên về biểu tượng. Những hình ảnh nhiều sức gợi trong truyện của cô được miêu tả sinh động, trong một trạng thái, một tâm hồn. Có thể nói cánh đồng (trong Cánh đồng bất tận) là một khám phá độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư khi được nhìn nhận như biểu tượng của nỗi đau, sự xoa dịu, chờ đợi: “Đất dưới chân chúng tôi đã bị thu hẹp dần. Nhưng ngay từ đầu chúng tôi đã tự làm quẩn chân mình, vì không thể quay lại những cánh đồng cũ (với những người quen cũ)”. Với Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã đi đến tận cùng những thể nghiệm trong bút pháp của mình: loại bỏ tầm quan trọng của sự kiện để đào sâu vào tâm lý và cảm xúc. Đến phút cuối, tác giả đã để cho những thù hận qua đi, những vết thương được cánh đồng mênh mông nước trắng làm cho lành lại, cho bùn đất dịt vào da thịt để cảm nhận sự bất tận của nỗi đau, bất tận của tình yêu thương. Đặt nhân vật vào trong những bối cảnh có tính tương phản cao: con thuyền nhỏ bé giữa mênh mông nước trắng, giữa bùn đất đặc quánh và cánh đồng “vắng bóng người, lúa rày mọc hoang” Nguyễn Ngọc Tư đã để cho nhân vật cảm nhận chất thơ của cuộc sống nhọc nhằn, cơ cực, trong sự ấm cúng của một triền sông nước, giữa cuộc sống bộn bề hôm nay.
Vội vã Gió lẻ
Thế giới nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư là vùng quê lam lũ với những con người lam lũ, những mảnh đời nhỏ bé mong manh, những tâm hồn tinh khiết đến hoang sơ ẩn bên trong vẻ ngoài cục mịch, xơ gai, cam chịu: Sông dài con cá lội đâu (2004), Nửa mùa (2004)…
Ơi Cải về đâu? (2005) là câu chuyện của một người cha (Năm Nhỏ) đi tìm đứa con lưu lạc giữa chốn thị thành, trong nỗi day dứt về câu nói của 20 năm về trước. Một cô gái bị cha mẹ bỏ rơi không nguôi khát khao mái ấm. Một chàng trai nghèo ôm giấc mộng ca sĩ... Ba mảnh đời gặp nhau ở cái xóm nhỏ, trong dãy phòng trọ nghèo. Gặp nhau, tựa vào nhau để sống rồi lại xa nhau. Với truyện ngắn này, Nguyễn Ngọc Tư đã chú ý chăm chút đến tình huống truyện, đến sự phức tạp trong tâm lý nhân vật hơn để bật ra những chi tiết dở khóc dở cười: người khao khát mái ấm gia đình nhưng không được người thân tìm kiếm, người muốn trở về nhưng không được gia đình chào đón và một người cha phải phạm tội để được xuất hiện trên truyền hình vài giây chỉ để kịp gọi con một tiếng. Ơi Cải về đâu? là một trong hai truyện ngắn (cùng với Biển người mênh mông) được chuyển thể thành bộ phim Cải ơi dài 90 phút do TFS sản xuất năm 2006 (đạo diễn: Phương Điền, kịch bản: Hoài Hương).
Nguyễn Ngọc Tư
Giải thưởng
Giải I Cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 lần II - tác phẩm Ngọn đèn không tắt - năm 2000.
Giải B - Hội nhà văn Việt Nam - tập truyện Ngọn đèn không tắt - năm 2000.
Giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam 2006 - tác phẩm Cánh đồng bất tận.
Giải thưởng Văn học các nước Đông Nam Á 2008. |
Cho dù hướng đến Ngày mai của những ngày mai (2007), Nguyễn Ngọc Tư luôn dự cảm một sự hư vô của kiếp người giữa sự tròn trịa hay khuyết thiếu của tình người, Gió lẻ (2008) đã cho thấy một hướng đi mới của Nguyễn Ngọc Tư.
Không rõ truyện Gió lẻ có được gợi ý gì từ Ma và người mà Nguyễn Ngọc Tư đã viết từ năm 2006: “Thật đơn giản, lâu nay người ta cứ nghĩ ai đó là kẻ thù trong khi họ cũng có thể làm bạn. Tôi lại tin có ma ở trên đời, nhưng không phải để sợ hãi”? Có thể nói, điều đáng tiếc nhất của Gió lẻ là nó không đáp ứng được sự chờ đợi của người đọc về một tác phẩm ngang tầm với Cánh đồng bất tận. Mặc cho những đột phá dễ thấy, có cảm giác như Gió lẻ được xây dựng và triển khai quá vội vã, chưa đủ thời gian và cũng không được dồn đủ tâm sức cần thiết. Phải chăng nguyên do của sự không thành công này lại nằm chính ở sự thành công của một nhà văn luôn được chờ đón như một “đặc sản Nam Bộ”?